Tổ hợp tên lửa phòng không S-75 (Photo: Armyrecognition)
Как наши ЗРК С-75 во Вьетнаме били американцев
Vladimir Tuchkov
Kichbu theo: svpressa.ru
Ngày 24 tháng Bảy năm 1965 (SAM) S-75 của Liên Xô
đã bắn rơi ở Việt Nam
ngay
lập tức ba máy bay tiêm kích-ném bom F-4 Phantom
II của Mỹ. Theo sắc lệnh của Hồ Chí Minh, ngày này đã được kỷ niệm như Ngày của bộ đội tên lửa phòng không của
Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau ngày 24
tháng Bảy, tổn thất của máy bay Mỹ đã tăng lên đột biến, vì vậy Bộ chỉ huy của Không quân Mỹ buộc phải thay đổi triệt để chiến thuật không kích.
Sức mạnh hủy diệt
Hoa Kỳ đã chuẩn bị cho các cuộc không kích vào Bắc Việt Nam một cách bài bản. Tại Thái Lan và Nam Việt Nam hoặc trước đây hàng chục căn cứ không quân hoặc được
nâng cấp hoặc được lại xây dựng
mới. Đến đầu năm 1965, tại
các că cứ này đã bố trí hơn 500 máy bay
cường kích và máy bay chiến đấu.
Các
máy bay chiến đấu-ném bom F-105, Thunderchief và
F-100 Super Sabre chiếm ưu thế. Cũng có
một số "Phantom»
hiện đại nhất - F-4C
Phantom II. Sau
đó xuất hiện F-111 siêu
hiện đại. Để đẩy lùi các cuộc tấn công vào các căn cứ đã sử dụng
máy bay đánh chặn F-102 Delta Dagger.
Nhưng đó không phải là tất cả. Ở Vịnh Bắc Bộ
tập trung hai nhóm tàu sân bay mạnh: Yankee
Station (hơn 200 máy bay tấn công
máy bay chiến đấu của Hải quân) ngoài
khơi bờ biển của Việt Nam DCCH và Dixy Station - - ngoài khơi bờ biển của
Nam Việt Nam. Không quân của hải quân chủ yếu sở hữu các máy bay chiến đấu F-4B Phantom II, F-8 Crusaider, máy bay tấn công A-4 Skyhawk,
A-1 Skyraider.
Sau đó, sức mạnh tấn
công được tăng cường bởi máy bay ném bom chiến lược B-52.
Trong tổng số, khoảng 5 nghìn
máy bay đã tham gia vào cổ máy xay thịt
Việt Nam trong 10 năm. Kết quả là, người Mỹ trút xuống Việt Nam, cả
hai miền Bắc và Namlà 6,8 triệu tấn
bom, gần gấp ba lần
so với các vụ đánh bom của Đức trong Chiến
tranh thế giớ II.
Phi công Mỹ chưa từng
thấy những điều như thế
Tương quan lực lượng đối với Bắc
Việt Nam thoạt đầu hoàn toàn thảm họa. Quân đội Việt Cộng chỉ có 60 máy
bay, chủ yếu - các lại máy
bay Liên Xô do Trung Quốc sản xuất -
máy bay cận âm thanh MiG-17 và máy bay ném bom IL-28. Tình hình trầm trọng hơn do thiếu đào tạo phi công Việt Nam, những người
có được kinh nghiệm theo từng trận đánh. Các đặc điểm thể chất của phi
công, chưa thể chịu đựng được tình trạng quá tải một cách tốt nhất cũng tác
động tiêu cực đến khả năng sẵn sàng
chiến đấu.
Các cuộc tấn công
vào Bắc Việt Nam bắt đầu vào tháng Hai năm 1965. Người Mỹ nhờ ưu thế ró ràng đã
hành động khá đơn giản. F-105 với số tiền lên đến 80
máy bay ném bom xuất hiện trong khu vực đánh bom ở độ cao 3000-4000 m
và không cần ngắm đặc biệt đã ném bom ở tốc
độ siêu âm. Pháo phòng
lạc hâu của Việt Nam không gây cho họ thiệt hại lớn, còn những MiG-17 chậm chạp và ít ỏi không đử sức để ngăn các cuộc tấn công táo tợn này ở mức độ cao
nhất.
Mọi việc bắt đầu thay đổi đột ngột vào tháng Bảy năm 1965. Tại Bắc Việt Nam
bắt đầu triển khai hai tiểu đoàn quốc phòng được trang bị hệ thống tên lửa
phòng không di động của chúng ta (SAM) S-75 "Dvina". Các khẩu đội
chiến đấu cũng bao gồm các binh sĩ và sĩ
quam Liên Xô. Ngày 24 tháng Bảy đã tiến hành trận thử lửa đầu tiên của họ.
Vào lúc 14.00 trên các màn hình radar phát hiện được
hai mục tiêu chính. Đó là bốm máy bay "Phantom", bay theo thừng cặp. Vào lúc 14.25 hượng úy
Konstantinov ấn nút "Phóng". Tên lửa đầu tiên bắn rơi một máy bay,
tên lửa thứ hai trúng nó khi đang rơi. Tiểu đoàn thứ bắn hạ thêm hai "Phantom". Chỉ có
một người Mỹ kịp trốn thoát.
Ngay sau đó,
việc điều khiển SAM đã được chuyển giao cho người Việt Nam, những người được các chuyên gia quân sự Liên Xô đào
tạo tại các trung tâm huấn luyện và đơn vị chiến đấu cấp trung đoàn theo nguyên tắc "làm như tôi làm", và cũng như tại các trường quân sự cao cấp của Việt Nam . Sau một thời gian ngắn
huấn luyện, các sĩ quan và binh sĩ Việt
Nam đã nắm bắt được các kỹ năng, và vai trò của các chuyên gia Liên Xô bắt đầu tập
trung vào nhiệm vụ tư vấn tại nơi tác chiến và huấn luyện những kiến thức mới
về kỹ thuật nảy sinh sau những khóa huấn luyện bị gián đoạn ở Liên Xô trong các
trường đại học và KB. Hơn nữa, những bổ sung này được thực hiện theo các tài
liệu của đại diện KB, những người đã nghiên cứu
tại Việt Nam đặc trưng sử dụng SAM.
Cuộc chiến tranh của
chiến lược và chiến thuật
Thiệt hại của người Mỹ tăng đột biến. Nếu
nửa đầu năm 1965 400 máy bay bị bắn rơi, thì chỉ trong
tháng đầu tiên của áp dụng S-75,
tổn thất gần đến hai trăm. SAM đã phát hiệu hiệu lực cao bất ngờ - trung bình mất 1,5 tên
lửa cho một máy bay bị bắn rơi.
Vì vậy người Mỹ xem lại chiến thuật.
Các vụ đánh bom bắt đầu thực hiện ở tầm thấp. Trong thời kỳ đầu điều đó mang
lại những kết quả tương đối khá, bởi vì giới hạn thấm nhất tiêu diệt bằng tên
lửa SAM "Dvina" là khoảng 3 km. Ngoài ra, Không quân Mỹ bắt đầu sử
dụng khi oanh kích các nhiễu sóng được
lắp đặt trên các máy bay hộ tống. Những nỗ lực rất lớn đã bắt đầu chỉ nhằm săn
lùng SAM bằng máy bay ném bom và máy bay tấn công mặt đất. Tình hình đối với
người Mỹ nhằm giảm thiểu thiệt hại vì SAM đã được cải thiện đôi chút. Tuy
nhiên, bây giờ họ bắt đầu mất 30 đến 40
phần trăm các nguồn lực máy bay để "thanh toán" với bộ đội tên lửa.
Trong thời gian này, hiệu quả bắn của S-75 giảm sút đáng kể. Để bắn rơi một
máy bay bắt đầu phải mất 9-10 tên lửa.
Tuy nhiên, nhờ một loạt cải tiến liên tục các tổ
hợp tên lửa, khả năng chiến đấu của chúng được nâng lên. Khăng năn chống nhiễu
cũng được tăng, và tầm thấp khu vực tiêu diệt giảm đến 500 m. Ngoài ra chúng
tôi đã điều chỉnh chiến thuật ứng dụng. Đặc biệt, chúng tôi bắt đầu sử
dụng "phóng ảo" tên lửa. Phi
công, phát hiện "tấn công", mà trong thực tế nó không xảy ra, buộc
phải vận động trành "tên lửa" và điều này làm vị trí của nó dễ bị
phát hiện hơn trong chiến đấu. Tất cả các hoạt động này đã góp phần vào thực tế
rằng, mỗi chiếc máy bay bị bắn rơi bắt đầu sử dụng 4-5 tên lửa
Các tiểu đoàn SAM hợp đồng chặt chẽ với pháo phòng không (ZA). Pháo phòng
không được sử dụng các dữ liệu của hệ thống radar phòng không. SAM và ZA cùng
bao phủ toàn bộ phạm vi về độ cao và khoảng cách. ZA trang bị pháo 30-, 37-, 57-, 86- và 100-mm.
Pháo phòng không vì "khối lượng lớn" của nó đã bị tiêu diệt nhiều
máy bay hơn SAM. Tuy nhiên, có một số loại máy bay, mà với chúng chỉ có thể
phải dùng tên lửa. Chẳng hạn C-75 gây ra thiệt hại to lớn cho máy bay chiến
lược Mỹ, đã tiêu diệt theo ước tính khác nhau
từ 32 đến 54 máy bay siêu nặng B-52.
Phi công Mỹ, lần đầu tiên phải đối mặt ở
Việt Nam với SAM của
Liên Xô, lúc đầu họ sợ hoảng loạn. Được biết đến khá lớn các trường hợp khi phát hiện bằng mắt tên lửa phóng lên, họ đã
rời bỏ máy bay đang bay tốt.
Tính toán - rơi nước mắt
Đối mặt với các vũ khí phòng không mạnh mẽ của đối phương, dựa trên SAM, cũng như sự xuất hiện trên bầu
trời Việt Nam các máy bay MiG-21 mới nhất, người Mỹ vào cuối những năm 60, trong thực tế, đã thay đổi các cuộc không kích. Vì những tổn thất của không quân Mỹ
đã trở thành hoàn toàn thảm bại. Chỉ trong tất cả các năm của Chiến tranh Việt
Nam, Không quân và Hải quân Hoa Kỳ đã mất 3374 máy bay. Hơn 300 máy bay đang
phục vụ trong lực lượng không khí của Nam Việt Nam cũng bị tiêu diệt.
Không quân Bắc Việt Nam đã mất khoảng 150 máy bay
MiG - cả do Liên Xô cũng như Trung Quốc sản xuất. Nhưng con số này chưa tính
đến những tổn thất phi chiến đấu do tai nạn vì những lý do khác nhau.
Thống kê mẫu theo sự đóng góp của hệ thống phòng không và
máy bay chiến đấu cho sự thất bại
của Không quân Mỹ như sau:
- máy bay chiến đấu bắn rơi 305 máy
bay Mỹ (9%);
- SAM -
1046 (31%);
- pháo phòng
không - 2024
(60%).
Trong chiến tranh, Liên Xô chuyển
giao cho Việt Nam tên lửa 95 SAM S-75 các biến thể khác nhau và 7658 tên lửa kèm theo chúng. Đến cuối chiến tranh, chúng đã được sử dụng, cũng như bị mất trong trận chiến hoặc hư hỏng 6806 tên lửa.
Như vậy, để bắn rơi một máy bay chiến
đấu đã sử dụng 6,5 tên lửa. Xét đến rằng đã phóng chiến đấu 3228, thì chỉ số
này còn cao hơn - 3,1 tên lửa cho một máy bay bị bắn hạ.
-----
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét