GS. Nguyễn Tài Cẩn cùng phu
nhân và PGS.TS Vũ Đức Nghiệu
16:42:00 14/04/2013
Nguồn: cand.com.vn
Kichbu posted on 15.04.2013
GS Nguyễn Tài
Cẩn đi vào cõi vĩnh hằng trên đất nước Xôviết đã 2 năm nay. Hài cốt của ông
được đưa về an táng tại quê nhà huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Báo CAND xin
trích đăng bài của GS Hà Minh Đức về GS Nguyễn Tài Cẩn và phu nhân, bà Nonna
Stankevich.
Vào đầu những năm
1960, tôi đang công tác ở Khoa Văn, Đại học Tổng hợp có dịp gặp nhiều cán bộ
trẻ của Liên Xô sang công tác. Họ là những nhà Việt Nam
học đầu tiên đến Việt Nam.
Tôi nhớ có I.P.Zimonina xinh đẹp, V.S Panfilov dáng thanh tú có hàng ria đẹp,
hay mặc áo ca rô và chân đi hơi khập khiễng… Và vợ chồng Nguyễn Tài Cẩn, Nonna
Stankevich cũng về nước vào dịp này. Hai ông bà được phân ở ngôi nhà hai tầng
bên cạnh cơ sở II của Trường Đại học Tổng hợp, đối diện với Trường Albert
Saraut cũ. Nhà có vườn, kiến trúc hơi cổ nhưng đẹp mắt. Thỉnh thoảng thấy ông
bà đi về và cụ già bố Giáo sư Cẩn cũng ra ở cùng. Nhà có con dâu Tây nên cũng
phải điều chỉnh cách sống. Ông cụ cũng mặc cả bộ pyjama sọc đi lại nhanh nhẹn
và không quên thói quen hút thuốc lào thả khói và tè cạnh bụi chuối ngoài vườn.
Điều này thật không hợp khi trong nhà có một cô dâu Tây. Bà Nonna là con gái
Nga thuộc gia đình nền nếp. Dáng người cao, tóc vàng cắt ngắn, vẻ dịu dàng. So
với Giáo sư Cẩn thì có phần so le, ông thấp hơn một chút, ăn mặc giản dị và có
phần xuềnh xoàng, nhưng ông có sức hấp dẫn của trí tuệ và ngôn luận. Ông năng
động, nói năng, đối thoại linh hoạt, nhiều sáng kiến. Ngược lại bà Nonna lại
lặng lẽ, có chiều sâu, thỉnh thoảng mỉm cười hoặc cảm ơn theo nghi lễ hoặc nói
đôi câu pha chút giọng Nghệ. Điều này cũng dễ hiểu vì thầy giáo cận kề quê gốc
ở Nghệ An. Hai ông bà sống với nhau hơn nửa thế kỷ có hai con trai là Nguyễn
Tài Việt và Nguyễn Tài Nam.
Bà Nonna là
người vợ hiền, người mẹ chăm sóc con học hành đến trưởng thành. Mối tình giữa
hai người nảy nở như thế nào còn là điều ít người biết đến nhưng có lẽ duyên
đầu là sự cảm phục với thầy giáo Việt thông minh, “ngạc nhiên trước sự hiểu
biết của ông về văn học cổ điển Trung Quốc”, rồi vốn kiến thức được giáo dục
trong gia đình Nho học. Và cứ thế tình yêu khoa học có thể mở đường cho nhiều
nẻo đường mới mẻ. Trong bài viết bà ít nói về chồng mà chủ yếu là về khoa học,
về sự hình thành và phát triển của ngành Việt Nam học ở Nga. Tuy nhiên tình cảm
cũng hé lộ đôi điều qua trang viết.
“Mùa hè đầu tiên ở
nước Nga, Nguyễn Tài Cẩn thường lên nhà nghỉ cuối tuần của Bystrov ở Kavgolovo.
Ở đó Nguyễn được tiếp xúc với thiên nhiên và đời sống tự nhiên nước Nga. Tôi
cũng thường có mặt ở đó. Chúng tôi thường có những chuyến đi bộ dài trong rừng
hay bơi thuyền qua hồ. Trong những chuyến đi ra vùng ngoại ô Petersburg nổi tiếng cũng như những lần đưa
Nguyễn đến các cửa hàng sách trong thành phố, anh mau chóng trở thành khách
hàng thường xuyên của các nhà sách. Trong những chuyến đi đó, lúc đầu chúng tôi
trao đổi với nhau bằng cả tiếng Hán và tiếng Việt, nhưng về sau bằng tiếng Việt
thường xuyên hơn và nhiều hơn” (GS Nonna Stankevich - Những năm tháng khởi đầu
tuyệt vời… Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư tr.23).
Kín đáo quá, người
viết không lộ nhiều nét riêng tư nhưng phải chăng chính giai đoạn này, những
chuyến đi chơi trong rừng, những cuộc bơi thuyền đã tạo nên một quan hệ mới
giữa hai người. Thiên nhiên thường là người đưa duyên như cách nói của Xuân
Diệu trong bài “Thơ duyên”. Giữa thiên nhiên tươi đẹp, gợi cảm khiến cho con
người không thể vô tâm cho dù bên ngoài như có vẻ thản nhiên.
“Thuyền theo lái, gái theo chồng”. Về Việt Nam mấy năm đầu
trong điều kiện đất nước hòa bình còn dễ chịu tuy có nhiều bề xa lạ. Chiến
tranh bùng nổ, nhà trường sơ tán lên vùng núi Thái Nguyên vùng núi Ký Phú, Đại
Từ. Bà Nonna không tạm về nước trong thời gian có chiến tranh mà lên vùng sơ
tán. Thật khó hình dung hết những khó khăn của vùng quê xa lạ. Có người Nga
nhận xét rằng, ở Việt Nam
rét hơn ở Nga, tuy không có tuyết nhưng phải chịu rét suốt ngày, lại độ ẩm cao
và có gió. Tôi không được biết căn nhà dân mà ông bà ở. Vùng quê này chợ búa xa
đi lại khó khăn. Tôi đã một vài lần gặp bà đến nhà bếp của Khoa Văn nơi nấu ăn
cho cán bộ và phát gạo cho các gia đình. Bà Tuấn thủ kho thấy Nonna đến liền
tươi cười phát gạo và nhu yếu phẩm. Nonna đội nón, mặc quần lụa đen và áo ngắn
sẫm màu, chân đi dép cao su, bà đeo ba lô và đựng gạo lấy được trong ba lô.
Trông xa như một bà nông dân, dáng cao cao, rảo bước trên con đường quê. Nghĩ
mà phục, mà cảm thương. Bà là người có bản lĩnh vượt qua khó khăn với niềm vui
tự nhiên. Trong một lần họp bà có những ý kiến sâu sắc: “Trước những thử thách
của hiện tại, tôi luôn nghĩ tới những người thầy của tôi ở Saint Petersburg trong chiến tranh chống Đức
xâm lược… Họ là những tấm gương cho tôi hôm nay”. Cuộc sống khó khăn thì chiến
tranh ở nơi sơ tán vẫn không hạn chế những nỗ lực của Nonna Stankevich trong
nghiên cứu khoa học. Bà được Hội đồng Nhà nước phong tặng danh hiệu giáo sư vào
năm 1984. Các công trình nghiên cứu có giá trị được ghi nhận. Nonna được xem là
một trong “tứ quý” của Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp cùng với ba chị
Đặng Thị Hạnh, Lê Hồng Sâm, Hoàng Thị Châu. Các chị đều là Nhà giáo Nhân dân
được phong hàm giáo sư, phó giáo sư. Đến bao giờ, bao giờ mới có được bộ tứ quý
thứ hai tiếp nối. Khoa Sử cũng có một bộ tứ trụ triều đình gọi tắt là Lâm Lê
Tấn Vượng. Giáo sư Đinh Xuân Lâm đã 84 tuổi vẫn còn mạnh khỏe tham dự nhiều
cuộc hội thảo quốc gia, Giáo sư Phan Huy Lê phong cách chính thống có nhiều
đóng góp cho ngành sử học, Giáo sư Hà Văn Tấn sắc sảo tài năng nhưng về già lại
sớm ốm đau, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã mất trong nỗi tiếc thương của bạn bè
đồng nghiệp. Triều đình nhỏ nào cũng có lúc phải thay trụ. Tre già măng mọc và
ngày nay tre và măng cùng mọc. Trong bộ tứ quý, chị Nonna có những công trình
khoa học. Theo Phó Giáo sư ngôn ngữ học Vũ Đức Nghiệu trong bài viết về cô
Nonna thì cô vốn có kiến thức sâu về Hán học, ngữ văn Trung Quốc rồi nghiên cứu
về văn xuôi tiếng Việt cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Lĩnh vực nào cô cũng thu
được những kết quả đáng trọng. Hai cuốn sách Loại hình các ngôn ngữ (viết
riêng), Ngữ pháp tiếng Việt (viết chung với Bustrov và Nguyễn Tài Cẩn). Chị
Nonna là nhà Việt Nam
học người Nga có thâm niên và có đẳng cấp nên các công trình quan trọng dịch
thuật từ Việt sang Nga đều được chị chuyển dịch hoặc hiệu đính từ Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, các bài viết của Chủ tịch Phạm Văn Đồng và lãnh đạo cao
cấp. Công việc nhiều, chị Nonna làm chu đáo không nề hà, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn
tâm sự chân tình.
“Cấp trên giao phó
thì phải gắng thực hiện thôi. Cũng là một nhiệm vụ chứ. Nhưng mà ở mình có
nhiều việc nó buồn cười lắm. Nhất là những tài liệu làm việc của những đoàn
thuộc bộ nọ ngành kia, hội này hội khác. Cứ như bỏ bom. Mai hoặc cách vài ba
ngày nữa lên đường thì hôm nay mang đến “nhờ chị giúp cho”. Thế là cô lại phải
cố. Thức đêm thức hôm. Rành khổ” (Vũ Đức Nghiệu).
Bận công việc
nhiều nhưng chị Nonna vẫn dành thì giờ chăm sóc bố chồng và các con chu đáo.
Chị cũng quan tâm đến bè bạn, nhất là các chị trong khoa. Nhà ở khu chợ Giời có
cây phong lan nhiều hoa. Nonna làm những phong bì nhỏ rồi cho hoa vào và gửi
tặng các bạn. Chuyện nhỏ nhưng cũng nói lên tình cảm của chị với mọi người.
Qua nhiều năm
không gặp Giáo sư Cẩn và bà Nonna – tháng 5/2002, tôi lại có dịp gặp lại Giáo
sư Nguyễn Tài Cẩn và Nonna Stankevich ở Saint Petersburg nhân dịp Hội thảo Euro
Viet V tổ chức ở St Petersburg Nga. Bà Nonna Stankevich có già đi chút ít nhưng
dáng người khỏe và đậm hơn.
Nói đến Giáo sư
Nguyễn Tài Cẩn là nói tới một nhà khoa học đầu ngành, sắc sảo, trí tuệ với
nhiều công trình ngôn ngữ, Hán Nôm có giá trị. Giới ngôn ngữ học có một đội ngũ
đông đảo nhiều tài năng thuộc nhiều thế hệ nhưng có lẽ ấn tượng hơn cả là hai
nhà khoa học, hai Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn và Cao Xuân Hạo. Cao Xuân Hạo là bẩm
sinh và Nguyễn Tài Cẩn như ông nói vui “Cao Xuân Hạo là tài năng còn mình là
Tài Cẩn”. Con người thông minh và dí dỏm ấy luôn có những ứng phó bất ngờ và
thú vị trong giao tiếp. Sau khi ông mất ở Nga, giới ngôn ngữ học đã tổ chức hội
thảo khoa học vào ngày 26/3/2011 với tiêu đề “Tọa đàm khoa học. Tưởng nhớ Giáo
sư Nguyễn Tài Cẩn” với 25 bản báo cáo khoa học, tham luận… Giáo sư Đinh Văn Đức
cho biết, các công trình tiêu biểu của GS Nguyễn Tài Cẩn được nhận Giải thưởng
Hồ Chí Minh gồm: Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng – từ ghép – đoản ngữ), Lịch sử
nguồn gốc tiếng Việt, Nguồn gốc và sự hình thành cách đọc Hán Việt.
Đối với các công
trình ngôn ngữ tôi là người ngoại đạo nhưng Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn nhà khoa học
đời thường tôi lại có dịp tiếp xúc và chuyện trò. Ông cởi mở, vui tính, dễ chân
tình. Làm chủ một gia đình có một ông bố nho phong, một bà vợ Nga và hai con
đòi hỏi cách xử sự khôn khéo linh hoạt. Điều may mắn là bà Nonna là người phụ
nữ giản dị, không trưng diện hình thức nên Giáo sư Cẩn và người bạn đời dễ hòa
hợp với nhau trong cuộc sống. Hoàn cảnh kinh tế, khó khăn phải làm sao giải
quyết các mối quan hệ gia đình xã hội chu đáo. Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là người
khéo tay. Đồ đạc trong nhà như bàn ghế gãy chân đều sửa chữa được. Ông chăm làm
chiều chuộng vợ trong hoàn cảnh sống chật vật, khó khăn. Giáo sư Cẩn cũng là
người chu đáo với gia đình ngoại. Trong những chuyến đi thực tế ở vùng rừng núi
ông chọn các vật có thể làm quà kỷ niệm. Ông là người chu đáo tỉ mỉ, tạo cho
không khí gia đình êm ấm để làm khoa học. Sự say mê khoa học không có giới hạn
và như quên hết thời gian cho công việc. Đó cũng là đức tính chung của các nhà
nghiên cứu lâu năm thành danh. Tôi ở gần Giáo sư Bùi Văn Nguyên. Ông sống độc
thân thỉnh thoảng con gái đến thăm chăm sóc bố. Ông ngồi miệt mài suốt buổi
sáng đến trưa. Con gái nhắc bố: “Ông ơi, ông nghỉ để ăn cơm, ông ngồi lâu suốt
sáng đến giờ”. Ông Nguyên trả lời: “Lâu gì mà lâu, bố mới tra được một chữ”.
Giáo sư Tài Cẩn cũng chăm chút thời gian như thế. Dường như lúc nào ông cũng
cầm bút ghi ghi chép chép ngay cả trong cuộc họp. Ông cười và bảo: Mình có mẹo
của mình. Vào họp phải nắm nhanh vấn đề và phát biểu một ý gây ấn tượng rồi còn
lại toàn bộ thời gian là của mình làm việc riêng.
Sau gần hai năm
ngày mất của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, bà N.V.Stankevich viết bài “Nguyễn Tài Cẩn
như tôi tưởng nhớ” với những dòng đằm thắm nói về người bạn đời của mình: “Nghĩ
đến cuộc đời của Nguyễn Tài Cẩn thì thấy được một con đường thẳng, vượt nhiều
khó khăn vật chất và tinh thần khó khăn chung cho cả nước và khó khăn riêng tư,
một con đường tìm tòi đi lên cao. Nghĩ đến con người Nguyễn Tài Cẩn, thì lại
sực nhớ tới câu thơ của nhà thơ Nga nổi tiếng Sergei Exérnin:
Thường chẳng
nhận ra nhau khi đối diện,
Xa
ngoảnh lại nhìn mới thấy lớn lao”
------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét