Thứ Sáu, 19 tháng 11, 2010

Lời cảnh báo từ cuốn sách về bô-xit Tây Nguyên

Lời cảnh báo từ cuốn sách về bô-xít Tây Nguyên

Phạm Huyền

Nguồn: boxitvn

Kichbu post on thứ bảy, 20/11/2010  06:50

clip_image001

 

Phó Viện trưởng CODE Phạm Quang Tú cho biết, cuốn sách sẽ cung cấp thông tin toàn diện
khách quan về vấn đề bô-xít Tây Nguyên (ảnh: M.H)

 

(VEF) – Cuốn sách về bô-xít Tây Nguyên do 9 nhà khoa học, nhà nghiên cứu soạn thảo sẽ chính thức phát hành trong 8 ngày nữa, với lời cảnh báo: “Nếu cứ sa đà vào kinh tế bóc lột tài nguyên, Việt Nam sẽ càng nghèo đi”.

Với tựa đề “Khai thác bauxite và phát triển bền vững Tây Nguyên”, gồm 7 chương, dày hơn 200 trang và thuộc thể loại chuyên khảo, cuốn sách mổ xẻ toàn diện các vấn đề về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, môi trường… của ngành công nghiệp nhôm nói chung và chủ trương khai thác bô-xít ở Tây Nguyên hiện nay.

Không chỉ động chạm vào vấn đề thời sự đang nóng bỏng nhất trong giới khoa học và dư luận xã hội, cuốn sách được ra mắt ở thời điểm rất đặc biệt. 
Đó là chỉ ngay đầu tuần tới, trước kiến nghị dừng dự án bô-xít của gần 2.500 nhà khoa học, nhân sĩ trí thức cả nước,
Thủ tướng sẽ quyết thế nào?

Bởi vấn đề bô-xít Tây Nguyên sẽ là tâm điểm ở phiên chất vấn của Quốc hội  đối với các bộ trưởng và Thủ tướng Chính phủ  từ ngày 22 đến 24/11 này.

Trong nhóm 9 nhà khoa học, nhà nghiên cứu có uy tín đầu ngành khai khoáng nhôm cùng soạn thảo, có sự góp mặt của nhà văn Nguyên Ngọc. GS.TSKH Lê Văn Khoa, Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển là Tổng biên tập. Ấn phẩm do Nhà xuất bản Tri thức phát hành.

Tại buổi giới thiệu sách chiều qua,18/11, GS TSKH Đặng Trung Thuận cho biết, 2 năm trước đây, tháng 5/2008, 16 nhà khoa học đã cùng ký lá thư đầu tiên gửi lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ với kiến nghị chủ đạo: không nên triển khai việc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên một cách ồ ạt. Cuốn sách này đã truyền tải cơ bản thông điệp của bản kiến nghị đó.


GS Thuận nói: “Đó là tài liệu chưa từng công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng đến giờ, với những gì đã diễn ra 2 năm qua, chúng tôi thấy có thể công bố được.”

Nhà nghiên cứu Nguyễn Trung bộc bạch: “Chúng tôi hi vọng cuốn sách sẽ mang lại những gợi ý cho những người làm công nghiệp nhôm, những nhà quản lý những điều mà không thể không quan tâm về bô-xít Tây Nguyên”.

“Hãy thử tưởng tượng, để làm 1 tấn nhôm, phải tốn 13.000-14.000 kWh, bằng một hộ gia đình tiêu dùng điện trong cả 20 năm. Thế giới đã coi công nghiệp nhôm là “công nghiệp bẩn”, tiêu tốn năng lượng và đã đưa ra 10 điều kiện cơ bản để một quốc gia có nên đi vào ngành công nghiệp này hay không”, tác giả Trung nói.

Khi đang soạn thảo cuốn sách thì sự cố vỡ hồ bùn đỏ ở Hungari xảy ra. Nhưng theo tác giả Nguyễn Trung, vấn đề bô-xít Tây Nguyên không chỉ là chuyện bùn đỏ, hay công nghệ khai thác.

Và cũng đừng nghĩ, giải quyết được vấn đề công nghệ thì chúng ta có thể đi vào thị trường nhôm thế giới.

"Nếu không tính đúng, tính đủ thì chúng ta sẽ có nguy cơ sa đà vào phát triển kinh tế thượng nguồn và nếu vậy, Việt Nam sẽ càng nghèo đi", ông Trung nhấn mạnh.

Chia sẻ thêm về quan điểm làm dự án bô-xít , Tổng biên tập cuốn sách, GS Lê Văn Khoa cho rằng: “Xu thế trên thế giới chuyển khai thác bô-xít từ nơi ít nguồn nước sang nơi dồi dào nguồn nước, từ nơi thiếu điện sang nơi nhiều điện.

Nhưng, Việt Nam lại thiếu cả 2 điều kiện đó. Xu thế khai thác khoáng sản là để chế biến sâu, nhằm tiết kiệm tài nguyên, tăng tính hiệu quả thì ở đây, dường như Việt Nam lại không làm thế."

Dự án bô-xít sẽ chiếm một diện tích đất lớn, trong khi đó là đất đỏ bazan, là vùng đất màu mỡ nhất Việt Nam, là viên ngọc quí. Khi khai thác bô-xít, dù có hoàn thổ thì đất đai hoàn thổ đó cũng không thể còn màu mỡ như cũ. Như vậy, sẽ ảnh hưởng kế sinh nhai của đồng bào dân tộc Tây Nguyên cả về kinh tế, xã hội, chính trị…

“Vì thế, chúng tôi thấy cần phải làm điều gì đó…”, GS Khoa nói.

Mặc dù, đây là sách khoa học nhưng câu chữ trong cuốn sách rất giản dị, lời lẽ chừng mực, chân thành. Ở chương cuối, nhóm tác giả đã viết: “Lấy của trời thì phải trả lại trời, không có cách gì trốn nợ trời được. Kinh tế bóc lột tài nguyên thiên nhiên là như vậy… Công nghiệp bôxít như đang triển khai hứa hẹn là “cái bẫy hay lời nguyền tài nguyên” còn lớn hơn đối với Tây Nguyên và cả nước.”

clip_image002

Nhà máy sản xuất alumina ở Tân Rai sẽ hoạt động năm 2011  (ảnh: Phạm Huyền)

Lời kết của cuốn sách cũng đầy tâm tư, day dứt.  
Kể về kỷ niệm hồi tháng 8/2010, khi nhóm tác giả đang rong ruổi ở vùng đất Tây Nguyên, lời kết có đoạn: “Đang mải mê với quá khứ, bỗng mây đen kéo đến phủ kín bầu trời, một cơn mưa rừng bất chợt ập đến, những dòng chảy mặt màu đỏ quạnh trên nền đất đỏ bazan, rồi nhanh chóng tràn qua cả mặt đường, cản trở cả lối đi,.

Mọi người chợt nhận ra rằng, thảm rừng Tây Nguyên không còn nữa, nó đã bị tàn phá nặng nề bởi những tổ hợp lâm công nghiệp sau ngày giải phóng miền Nam. Còn chăng chỉ những mảnh rừng nguyên sinh đâu đó nằm trong các khu bảo tồn thiên nhiên… ở độ cao 1.000-2.000m?”

Nhóm tác giả trăn trở: “Giờ đây, nếu khai thác và chế biến quặng bô-xít với qui mô lớn, trên diện rộng, nguy cơ một lần nữa lại tiếp tục làm cho rừng Tây Nguyên – nóc nhà của Đông Dương bị xâm phạm, khó có cơ hội để phục hồi….Vì lẽ đó, họat động của nhà máy alumina thử nghiệm ở Tân Rai cần được tính toán kỹ càng hơn…"

Và chốt lại vấn đề, nhóm tác giả khẳng định: “Điều chắn chắn rằng, trong bối cảnh hiện nay, chuyển sang phát triển bền vững đang trở thành đòi hỏi, thành mệnh lệnh của cuộc sống đối với Tây Nguyên và cả nước. Đương thời Bác Hồ dạy rằng: Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

“Chúng tôi đều đã 20, 30 tuổi Đảng, có người đã 50 tuổi Đảng. Chúng tôi viết cuốn sách này là với trách nhiệm của một Đảng viên, nêu lên tâm tư, suy nghĩ có cơ sở khoa học để Nhà nước xem xét quyết định một vấn đề lớn. Xin hãy hiểu, đó là cuốn sách được viết bằng chữ Tâm của các nhà khoa học Việt Nam”, GS Đặng Trung Thuận bày tỏ.

P. H.

Nguồn: VEF

---

Việt Nam có tránh được lời nguyền của tài nguyên ?

Phạm Duy Hiển

image SGTT – Nước ta giàu tài nguyên khoáng sản đến mức nào? Về việc này có lẽ nên nhắc lại một phát biểu dựa trên khoa học địa chất và ý tưởng thống kê của A. P. Aleksandrov, nguyên chủ tịch viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, theo đó trữ lượng khoáng sản của một nước nói chung tỷ lệ thuận với diện tích của nước ấy.

Chả thế mà Nga, Trung Quốc, Mỹ, Canada, Ấn Độ, Australia, Brazil… luôn dẫn đầu thế giới về sản lượng hầu hết các loại khoáng sản. Nước ta đất chật người đông, cho dù thượng đế có ưu ái cũng không thể hoá phép để biến một nước có diện tích thứ 65 trên thế giới (dân số thứ 13) trở thành cường quốc về tài nguyên thiên nhiên. Gần đây, bauxite Tây Nguyên và cát đen chứa titan dọc theo ven biển miền Trung được xem như một lợi thế tài nguyên lớn của đất nước. Song nhiều chuyên gia địa chất lâu năm lại tỏ ra dè dặt về những con số trữ lượng dường như được thổi phồng, thậm chí họ còn nhắc nhở thêm: cái mà thế giới cần, ta không có, còn cái ta có, thế giới lại không cần, hoặc họ có nhiều hơn.

Trên thực tế, hai mặt hàng khoáng sản lớn nhất của Việt Nam là dầu và than đá, dầu mỏ đứng thứ 36 trên thế giới (hơn 300 ngàn thùng/ngày), than đá thứ 17 (41 triệu tấn). Xem ra, chúng ta không nằm ngoài quy luật thống kê vừa nói trên. Năm 2008, xuất khẩu khoáng sản của ta chỉ chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó 80% là dầu thô, 10% than đá, và các khoáng sản khác chỉ chiếm 10%.


Có tài nguyên dồi dào mới chỉ là tiền đề, xử lý chúng thế nào mới là chuyện quyết định. Liệu việc đào bới cát đen trong mấy chục năm qua đã sinh lợi cho ai, và nguồn lợi mà Chính phủ thu được có thấm thía gì nếu muốn khôi phục lại vùng ven biển miền Trung đã bị tàn phá hay không?

Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến quặng bauxite do TKV trình và được Chính phủ phê duyệt tháng 11.2007, đã toát lên một tinh thần khẩn trương, chạy đua với thời gian để năm 2015 đạt 6 – 8,5 triệu tấn alumina, và tăng tốc mạnh hơn nữa đến 15 triệu tấn vào năm 2025. Ngay đến Trung Quốc, nước hàng đầu thế giới cả về alumina lẫn aluminium (nhôm), với tập đoàn Chalco hùng mạnh, khai thác khoáng sản khắp nơi trên thế giới, cũng chỉ sản xuất hơn 8 triệu tấn alumina hàng năm. Trớ trêu hơn, toàn bộ sản lượng khổng lồ ấy của ta lại phải xuất sang Trung Quốc, nước vừa cung cấp công nghệ vừa bao tiêu sản phẩm cho hai nhà máy đầu tiên, Tân Rai và Nhân Cơ, và chắc chắn sẽ tiếp tục làm như thế cho các nhà máy sau. Trong khi đề xuất một kế hoạch quá mạo hiểm như vậy, lại không hề nói rõ bao giờ ta mới nội địa hoá và làm chủ được công nghệ chế biến alumina, một công nghệ quá cổ điển, đã có từ cuối thế kỷ 19.

Chúng ta đã có quá nhiều bài học thất bại về làm chủ công nghệ. Sau hàng chục năm xây dựng công nghiệp ôtô, mức độ nội địa hoá chỉ quanh quẩn 4 – 5%. Với 100 đôla xuất được từ hàng may mặc ta phải nhập khẩu thiết bị, nguyên vật liệu đến 80 đôla ngay từ các nước láng giềng. Năm nay Việt Nam mới bắt đầu có sản phẩm lọc dầu nội địa, chậm hơn Thái Lan và Malaysia đến vài chục năm. Song có nhà máy lọc dầu không đồng nghĩa với làm chủ công nghệ hoá dầu. Tình trạng chậm tiến độ do trục trặc kỹ thuật tại nhà máy Dung Quất gần đây cho thấy làm chủ công nghệ, ngay chỉ ở mức độ vận hành suôn sẻ những công nghệ nhập từ nước ngoài, vẫn còn lắm gian nan.

Tại sao người Việt Nam không bước lên được quỹ đạo mà người Hàn Quốc đã ung dung trên đó từ cách đây bốn thập kỷ?

Hàng trăm đề tài được nghiệm thu xuất sắc về chế biến quặng ilmenit để tạo ra bột TiO2, zircon… , vẫn nằm trong ngăn kéo. Trong khi đó, qua chuyến khảo sát gần đây tại Bình Thuận, nơi dự kiến có lượng ilmenit và zircon đến hơn 6 triệu tấn, chúng tôi được xác nhận rằng cách có lời nhất là bán ilmenit sơ chế thô (qua khâu tuyển trọng lực) cho Trung Quốc, rồi mua lại của họ các thành phẩm chế biến tiếp theo.

Cần phải nhận dạng cho đúng tại sao chúng ta thất bại, không làm chủ được công nghệ trong rất nhiều ngành công nghiệp. Việc này sẽ giúp chúng ta đi dúng quỹ đạo công nghiệp hoá – hiện đại hoá, để không sa lầy vào cái “bẫy thu nhập trung bình”. Nhưng cho dù có những thất bại vừa qua, chúng ta không được phép hạ cái khẩu hiệu “khoa học – công nghệ là then chốt” xuống trong khi rất cần trưng nó lên để hoạch định một ngành công nghiệp hướng đến thương hiệu quốc gia dựa trên lợi thế tài nguyên thiên nhiên của mình.

***

Có tài nguyên không thể không khai thác. Nhưng không vội, không vơ vét, vì còn phải dành cho con cháu mai sau, và vì phải có đủ thời gian để học làm chủ công nghệ. Nhất quyết không bán rẻ tài nguyên cho nước ngoài. Cát đen không những chỉ chứa TiO2, monaxit, đất hiếm mà trong đó còn có zircon, từ đó làm ra hợp kim zircaloy cho vỏ thanh nhiên liệu trong nhà máy điện hạt nhân, còn có thorium, nguồn nhiên liệu tương lai có thể thay thế cho uranium đang cạn dần. Vậy tại sao phải ra sức đào bới các đụn cát xinh xắn mà thượng đế đã dày công vun đắp để chắn sóng, che gió, để từ nước mưa chắt lọc ra những mạch nước mội ngay sát bờ biển… rồi đem cát đen ấy bán vội cho nước ngoài? Như thế đâu phải là công nghiệp hoá – hiện đại hoá!

Có người phản biện: “Các nước ngày nay giàu có chính là nhờ vơ vét tài nguyên để công nghiệp hoá trong hàng trăm năm qua, có còn gì dành lại cho con cháu họ đâu?” Xin thưa, ít ra họ cũng còn truyền lại khối tri thức khoa học – công nghệ khổng lồ làm của hồi môn cho con cháu.

P. D. H.

Nguồn: SGTT

4 nhận xét:

  1. Có bao giờ Kichbu nghĩ rằng cát của Việt Nam (khu vực Miền Trung hay Phú Quốc) được xuất khẩu lậu sang Campuchia, hay Singapour không ?

    Trả lờiXóa
  2. Sách bán chỗ mô mần răng mua được Kích Bu hè?

    Trả lờiXóa

Steps


Flag Counter