(Maxim Shemetov / Courtesy Reuters)
Why the Ukraine Crisis Is the West’s Fault
Người dịch: Nguyễn Hoàng Nam
Kichbu theo FB Bùi Việt Hà
Theo quan điểm
hiện hành của phương Tây, cuộc khủng hoảng tại Ukraine xuất phát hầu như chính là
từ những hành vi kích động từ nước Nga. Tổng thống Nga Vladimir Putin, theo
quan điểm này, được cho rằng đã kích động Crimea li khai, trong một tham vọng
lâu dài nhằm khôi phục lại đế chế Xô Viết, và thậm chí có thể ông còn đang nhắm
đến phần còn lại của Ukraine, cũng như các quốc gia Đông Âu khác. Theo quan
điểm này, việc lật đổ tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych vào tháng 2 năm 2014
đơn thuần chỉ là việc đưa ra một cái cớ cho ông Putin đưa ra quyết định cho
phép quân đội Nga vào kiểm soát Ukraine.
Tuy nhiên, quan
điểm này là sai lầm. Bản thân Mỹ và các nước đồng minh châu Âu mới là người
thực sự chịu trách nhiệm nhiều nhất cho cuộc khủng hoảng này. Nguyên nhân chính
của vấn đề, là sự mở rộng của khối NATO, là yếu tố trọng tâm của một chiến lược
còn lâu dài hơn thế nhằm lôi kéo Ukraine tách khỏi tầm ảnh hưởng của Nga, và
sáp nhập nước này vào phương Tây. Cùng thời điểm đó, sự mở rộng về phía Đông
của các nước EU, cùng với sự hậu thuẫn của các nước phương Tây với những hoạt
động đòi quyền dân chủ ở Ukraine – bắt đầu bằng cuộc Cách mạng Cam vào năm 2004
– là một điểm nhấn quan trọng. Từ giữa những thập niên 90. những nhà lãnh đạo
Nga đã quyết liệt phản đối sự mở rộng của khối NATO, và trong những năm gần
đây, họ đã làm rõ quan điểm của mình rằng sẽ không thể ngồi yên khi quốc gia
láng giềng chiến lược của mình trở thành một điểm tập kết của quân đội các nước
phương Tây. Đối với Putin, việc lật đổ xảy ra với vị tổng thống thân Nga đã
được dân cử này – ông thẳng thắn đề cập về nó là một “cuộc đảo chính”, một giọt
nước tràn ly. Ông ta đã phản hồi lại bằng cách nắm lấy Crimea, một bán đảo mà
ông e ngại rằng NATO có thể đặt một cứ điểm hải quân ở đó, và ông cũng sẽ tiếp
tục làm lung lay tình hình chính trị tại Ukraine cho đến khi nước này từ bỏ nỗ
lực gia nhập về phía các nước phương Tây.
Những phản đối của
Putin không thực sự gây bất ngờ. Sau tất cả thì phương Tây đã đứng ngay ở sân
nhà của nước Nga và trực tiếp đe dọa đến lợi ích chiến lược của nước này, điều
mà ông Putin đã nhấn mạnh và liên tục nhắc lại. Các sự kiện này đã gây bất mãn
cho giới nguyên thủ ở Mỹ và các nước châu Âu, có lẽ bởi vì họ đã tin tưởng và
đồng tình với một cái nhìn về chính trị quốc tế có chút lệch lạc. Họ cho rằng
học thuyết của chủ nghĩa hiện thực hiện đã không còn liên quan đến thế kỷ hai
mốt nữa, và châu Âu có thể tiếp tục duy trì hòa bình và tự do trên cơ sở tôn
trọng những nguyên tắc về luật pháp, tự chủ kinh tế, và tinh thần dân chủ.
Tuy nhiên, dự định
to lớn này hẳn là đã lệch hướng khi bước chân đến Ukraine. Những cuộc khủng hoảng
diễn ra ở nước này đã cho thấy hệ thống những chính sách thực dụng vẫn còn giữ
vai trò nhất định của nó trong thời điểm này – vai trò mà trong thời kỳ khủng
hoảng này của các quốc gia, thì chính họ lại lờ nó đi. Những nhà lãnh đạo ở Mỹ
và châu Âu vẫn tiếp tục phạm những sai lầm nghiêm trọng khi cố gắng lôi kéo Ukraine trở
thành một điểm tựa chiến lược cho phương Tây, nằm ngay trên biên giới nước Nga.
Bây giờ thì khi kết quả đã lộ rõ ngay trước mắt, đây có thể sẽ còn là một sai
lầm còn to lớn hơn nếu tiếp tục chính sách ngớ ngẩn này.
Lời khiêu
khích từ châu Âu
Khi Chiến tranh
lạnh đang đến hồi kết thúc, những nhà lãnh đạo Xô Viết đã mong muốn rằng quân
đội Mỹ sẽ duy trì ở châu Âu, và NATO vẫn sẽ tồn tại ổn định, một thỏa ước mà họ
cho rằng sẽ giúp duy trì một nước Đức thống nhất và ổn định. Thế nhưng họ, và
những người kế tục của nước Nga cũng không muốn một NATO phát triển lớn rộng
hơn, và cho rằng những nhà ngoại giao phương Tây cũng sẽ quan tâm đến vấn đề
của họ. Còn chính quyền Clinton
thì lại nghĩ khác, trong những năm giữa thập niên 90, họ bắt đầu xúc tiến mở
rộng NATO.
Chặng đầu tiên của
cuộc mở rộng này bắt đầu vào năm 1999, và mở rộng đến Cộng hòa Séc, Hungary
và Phần Lan. Chặng thứ hai là vào năm 2004; bao gồm Bulgaria,
Estonia, Latvia, Lithuania,
Romania, Slovakia và Slovenia. Moscow ngay từ đầu đã có những lời chỉ trích
khá bất mãn. Chẳng hạn như trong chiến dịch ném bom tấn công những người Serbia
ở Bosnia của quân NATO vào năm 1995, tổng thống Nga Boris Yeltsin đã nói, “Đây
là dấu hiệu đầu tiên cho thấy điều gì có thể xảy đến, nếu để cho quân NATO tiến
đến sát biên giới của Liên Bang Nga. … Ngọn lửa chiến tranh có thể sẽ lan rộng
ra khắp lãnh thổ châu Âu.” Tuy nhiên, nước Nga khi đó quá yếu để có thể làm
chệch hướng mở rộng của NATO khỏi hướng Đông tiến – điều mà, dù thế nào chăng
nữa, khi đó có vẻ không nguy hiểm lắm, khi mà đương thời không có một quốc gia
thành viên mới nào của khối này đang chia sẻ biên giới với Nga, ngoại trừ các
nước vùng Baltic bé nhỏ.
Sau đó, NATO bắt
đầu nhìn xa hơn về phía Đông. Trong hội nghị các nước thuộc NATO vào tháng 4
năm 2008 tại Bucharest, các đồng minh đã thừa nhận Georgia và Ukraine. Chính
quyền tổng thống Mỹ George W.Bush đã thông báo rõ vậy, nhưng, Pháp và Đức đã
phản đối lại động thái này, lo ngại đây có thể là một hành động chống lại Nga
trắng trợn. Tại thời điểm cuối, các thành viên NATO đi đến một hiệp định: các
nước đồng minh đã không bắt đầu quá trình gia nhập chính thức cho thành viên
mới, tuy nhiên, họ đã công khai ủng hộ cho Georgia
và Ukraine,
với tuyên bố mạnh dạn, “Các nước này sẽ trở thành thành viên của NATO.”
Moscow, tuy nhiên, lại không có cùng cái nhìn về những hậu
quả mà hiệp định này sẽ mang đến. Alexdaner Grushko, sau là thứ trưởng Bộ ngoại
giao, đã nói, “Sự gia nhập thành viên của Georgia
và Ukraine
về phe các nước đồng minh sẽ là một sai lầm vô cùng nghiêm trọng, sẽ gây ra hậu
quả nghiêm trọng nhất cho toàn bộ an ninh của châu Âu.” Putin tiếp tục xác nhận
hai quốc gia này, nếu có ý định gia nhập NATO, sẽ là mối đe dọa trực tiếp đến
nước Nga. Một tờ báo Nga đã công bố rằng, Putin, trong cuộc hội đàm với ông
Bush, đã “tiết lộ rất ẩn ý rằng nếu Ukraine được phép gia nhập vào
NATO, sẽ không cần phải nhắc đến sự tồn tại của họ nữa.”
Cuộc đổ bộ của Nga
vào Georgia vào tháng 8 năm 2008 đã xua tan mọi nghi ngờ còn đọng lại về quyết
tâm của Putin nhằm ngăn chặn Georgia và Ukraine gia nhập NATO. Tổng thống
Georgia Mikheil Saakashvili, người đã cương quyết đưa nước này gia nhập NATO,
vào mùa hè năm 2008 đã quyết định sẽ tái sáp nhập hai vùng li khai là Abkhazia
và Nam Ossetia. Tuy nhiên, Putin đã cố gắng làm suy yếu Georgia và chia
tách họ khỏi NATO. Sau khi chiến tranh nổ ra giữa chính phủ Georgia và vùng li khai Nam Ossetia,
quân đội Nga đã chiếm quyền kiểm soát Abkhazia và Nam Ossetia. Moscow đã phải rất quyết đoán. Thế nhưng, bất
chấp những cảnh cáo rõ ràng này, NATO vẫn không chịu chính thức từ bỏ việc mục
tiêu của họ, mang Georgia và
Ukraine
quay lại gia nhập với các nước đồng minh. Và NATO tiếp tục mở rộng, bằng việc
đưa Albania và Croatia trở
thành thành viên của khối này.
EU cũng tiến hành
việc mở rộng về phía Đông. Tháng 5 năm 2008, EU cho ra mắt sáng kiến về Đối tác
chiến lược phía Đông của họ, một chương trình nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng ở
một số quốc gia như Ukraine
và mong muốn sáp nhập họ vào chung nền kinh tế EU. Không ngạc nhiên khi các
lãnh đạo Nga coi kế hoạch này như một sự khiêu khích, tổn hại đến các lợi ích
của họ. Tháng 2 đó, trước khi Yanukovych bị buộc phải từ chức, Ngoại trưởng Nga
Sergey Lavrov đã buộc tội EU đã cố gắng tạo ra một “khối ảnh hưởng” trên vùng
Đông Âu. Trong mắt của những lãnh đạo người Nga, sự mở rộng của EU chính là một
con ngựa dò đường cho sự mở rộng của NATO.
Công cụ cuối cùng
của phương Tây nhằm lôi kéo Kiev khỏi Moscow chính là các nỗ lực làm gia tăng
giá trị phương Tây, và đẩy mạnh dân chủ ở Ukraine và các nước hậu Xô Viết khác,
một kế hoạch thường đi liền đến việc đầu tư cho các cá nhân và tổ chức thân
phương Tây. Victoria Nuland, trợ lý thư ký Ngoại trưởng Mỹ đặc trách châu Âu và
khu vực Âu – Á, ước tính, trong tháng 12 năm 2013, nước Mỹ đã đầu tư hơn 5 tỉ
đô la, từ năm 1991 vào việc hỗ trợ Ukraine đạt được “tương lai họ xứng đáng
được hưởng.” Như một phần của nỗ lực này, chính phủ Mỹ đã hỗ trợ tài chính cho
Quỹ Quốc gia vì Dân chủ. Quỹ không lợi nhuận này đã tài trợ cho hơn 60 dự án
nhằm mục tiêu thúc đẩy xã hội dân sự ở Ukraine, và chủ tịch của NED, ông Carl
Gershman, đã gọi nước này là “một niềm hi vọng to lớn nhất.” Sau khi Yanukovych
thắng cử tổng thống Ukraine năm 2010, NED khẳng định mình vẫn chưa đạt được kết
quả đáng mong đợi, vì thế, họ tiếp tục những nỗ lực hỗ trợ các phe đối lập và
đẩy mạnh hoạt động của những tổ chức vì dân chủ ở nước này.
Khi các nhà lãnh
đạo Nga nhìn vào bộ máy xã hội phương Tây đang phát triển ở Ukraine, họ lo
lắng rằng có thể nước Nga rồi đây cũng sẽ như thế. Và những nỗi sợ đó hoàn toàn
không phải là không có cơ sở. Tháng 9 năm 2013, Gershman đã viết trên tờ Bưu
điện Washington, “Lựa chọn gia nhập EU
của Ukraine
sẽ đẩy nhanh sự sụp đổ của chủ nghĩa đế quốc Nga mà đại diện là ông Putin.” Ông
còn nói thêm :”Người Nga cũng vậy, họ phải lựa chọn, và Putin có thể nhìn thấy
chính mình trong một kết cục đánh mất không chỉ là những vùng lân cận của nước
Nga, mà còn cả chính bản thân nước Nga nữa.”
Kích động
khủng hoảng
Hãy thử tưởng
tượng xem, cơn giận dữ của Mỹ sẽ lớn thế nào nếu Trung Quốc xây dựng một liên
minh quân sự hùng hậu, trong đó có cả Canada và Mexico.
Gói bộ ba chính
sách của phương Tây – sự mở rộng của NATO, sự mở rộng của EU, và đẩy mạnh dân
chủ – đã thêm dầu vào ngọn lửa chực chờ nổ ra. Điểm nhấn là vào tháng 11 năm
2013, khi Yanukovych từ bỏ hiệp ước kinh tế chiến lược ông đã ký kết với EU để
chấp nhận 15 tỉ đô la mua nợ của Nga. Quyết định này đã làm dấy lên làn sóng
biểu tình chống chính phủ lan rộng và kéo dài trong suốt 3 tháng sau đó, mà vào
trung tầm tháng 2, đã dẫn đến cái chết của vài trăm người biểu tình. Các nhà
ngoại giao phương Tây đã phải nhanh chóng bay đến Kiev để giải quyết cuộc khủng hoảng. Vào ngày
21 tháng 2, chính phủ và phe đối lập đã thỏa ước sẽ để cho Yanukovych nắm giữ
quyền lực cho đến khi cuộc bầu cử mới được tổ chức. Nhưng thỏa ước đó đã bị
thất bại ngay lập tức, và Yanukovych phải chạy trốn sang Nga ngay ngày hôm sau.
Chính phủ mới ở Kiev
là một chính phủ thân phương Tây và chống lại Nga thuần túy, và hàm chứa trong
đó bốn thành viên cấp cao đều là những thành viên được gán cho tư tưởng phát
xít mới.
Bất kể sự rằng sự
góp mặt của Mỹ có thể vẫn chưa rõ ràng, những rõ ràng là Washington đã đứng sau cuộc đảo chính này.
Nuland và thượng nghị sĩ John McCain đã tham gia vào cuộc biểu tình chống chính
phủ, và Geoffrey Pyatt, đại sứ quán Mỹ ở Ukraine, đã tuyên bố sau cuộc lật đổ
Yanukovych rằng đó là “một ngày đáng nhớ trong lịch sử.” Như trong một đoạn ghi
âm điện thoại bị rò rỉ được phát hiện, Nuland đã ủng hộ việc thay đổi chế đố và
mong muốn chính trị gia người Ukraine Arseniy Tatsenyuk trở thành thủ tướng của
chính phủ mới, và ông đã làm vậy. Không khó hiểu rằng người Nga lại nghĩ rằng
phương Tây thực sự một phần đứng sau cuộc lật đổ ông Yanukovych.
Với Putin, thời
điểm để chống lại Ukraine
và phương Tây đã đến. Không lâu sau ngày 22 tháng 2, ông ra lệnh cho quân đội
Nga chiếm Crimea khỏi Ukraine, và rất sớm sau đó, ông sáp nhập nó vào lãnh thổ
Nga. Nhiệm vụ này trở nên tương đối dễ dàng, khi mà hàng nghìn trại lính của
quân đội Nga đã đóng sẵn ở căn cứ hải quân của Crimea, cảng Sevastopol. Crimea,
một phần cũng là một mục tiêu đơn giản, khi có đến 60% dân số ở đây là gốc Nga.
Hầu hết họ đều đã muốn thoát ly khỏi Ukraine.
Tiếp theo đó,
Putin tiếp tục gây áp lực lên chính phủ mới ở Kiev, và ngăn họ đứng về phe
phương Tây và chống lại Moscow, và nhấn mạnh rõ ràng rằng ông sẽ tìm mọi cách
phá hỏng chính phủ đương thời ở Ukraine, trước khi họ trở thành một chỗ chỗ dựa
cho phương Tây ngay trước cửa nhà của nước Nga. Để hướng tới mục tiêu đó, ông
đã cung cấp các chuyên gia, trang bị vũ khí, và những hỗ trợ về mặt ngoại gia
cho quân đội li khai ở phía đông Ukraine, những người đang đẩy đất nước vào
cuộc nội chiến. Ông tập trung một số lượng lớn quân đội vũ trang gần biên giới
với Ukraine,
và hăm dọa sẽ cho tiến quân vào nếu chính phủnước này còn cố tiếp tục đàn áp
quân nổi dậy. Và ông cũng đẩy giá khí đốt của Nga bán cho Ukraine lên rất
cao, đồng thời đòi thanh toán cho những khoản xuất khẩu trước đó. Putin đang
chơi cứng rắn.
Phỏng đoán
Hành động của
Putin quả thực dễ hiểu. Một vùng đất rộng lớn bằng phẳng mà từ Napoleon của
Pháp, cho đến đế chế Đức và Đức Quốc xã đã phải vượt qua để tấn công vào nước
Nga, thì vai trò của Ukraine quả thực là một khu vực trung gian mang ý nghĩa
chiến lược sống còn đối với nước Nga. Không một nhà lãnh đạo Nga nào lại chấp
nhận một liên minh quân sự đã từng là phe cực đối địch của mình lại tìm cách
thâu tóm Ukraine.
Và cũng không lãnh đạo người Nga nào có thể đứng yên nhìn trong khi các nước
phương Tây đang hỗ trợ cho chính phủ ở đó tiến hành việc sáp nhập Ukraine về phía
phương Tây.
Washington, có thể không thích cách làm của Moscow, nhưng họ phải hiểu được cái lý lẽ nằm
sau nó. Địa chính trị 101: Sức mạnh to lớn thì luôn đi kèm với sự nhạy cảm về
những mối đe dọa tiềm ẩn ở gần lãnh thổ của mình. Trên tất cả, thì Mỹ đã không
chấp nhận được việc một cường quốc nào từ xa thực hiện việc tập kết quân đội ở
bất cứ đâu trên khu vực Tây bán cầu, và nhất là trên biên giới của họ. Cứ thử
tưởng tượng, Washington có thể nổi giận thế
nào nếu Trung Quốc xây dựng được một liên minh quân sự đáng gờm bao gồm cả Canada và Mexico. Và về mặt lý thuyết mà nói,
những nhà lãnh đạo người Nga đã nhiều lần nhắc nhở các đối tác phương Tây rằng
họ đánh giá việc mở rộng của NATO vào tới Georgia và Ukraine là không thể chấp
nhận được, đi cùng với bất kỳ nỗ lực nào cố gắng lôi kéo các nước này chống lại
Nga – trong một lời nhắn gửi mà chiến tranh Nga – Georgia năm 2008 đã nhấn mạnh
rõ ràng.
Các quan chức cấp
cao của Mỹ và các đồng minh châu Âu đã thừa nhận rằng họ sẽ tiếp tục cố gắng
làm suy giảm bớt độ nghiêm trọng của nỗi sợ Nga và rằng Moscow nên hiểu rằng
NATO không có kế hoạch nào đối với Nga cả. Tiếp tục hơn nữa, để phủ nhận sự mở
rộng của mình không ngắm tới Nga, các nước đồng minh sẽ không thực hiện tập kết
quân sự trong một thời gian dài trước mắt tại các nước thành viên mới của họ.
Năm 2002, họ thậm chí còn thành lập một bộ gọi là Ủy ban NATO – Nga với một nỗ
lực đẩy mạnh sự hợp tác. Để tiếp tục xoa dịu Nga, Mỹ, vào năm 2009 đã lên tiếng
thông báo rằng họ sẽ tập kết hệ thống phòng thủ tên lửa trên biển mới nhất tại
vùng biển châu Âu, và khởi đầu, ít nhất, là trên lãnh thổ Czech và Phần Lan.
Nhưng dường như không một phương pháp nào ở trên có vẻ hiệu quả cả, người Nga
vẫn giữ trong lòng một sự cương quyết nhất định trong việc ứng phó với sự mở
rộng của NATO, kẻ mà cuối cùng, đã được cho là sẽ thành mối họa cho họ.
Để hiểu rằng tại
sao phương Tây, đặc biệt là Mỹ, lại thất bại trong nỗ lực phỏng đoán hệ lụy từ
các chính sách mà họ áp dụng với Ukraine, chúng ta phải nhìn lại về giữa những
năm 1990, khi mà chính phủ Clinton bắt đầu ủng hộ sự mở rộng của NATO.Các
chuyên gia cấp cao đã tiến hành rất nhiều những thảo luận về việc nên ủng hộ
hay ngăn cản sự mở rộng, nhưng vẫn chưa đưa ra được một sự đồng thuận nào cả.
Hầu hết cư dân tị nạn từ các nước Đông Âu ở Mỹ và các nước lân cận, chẳng hạn,
rất ủng hộ sự mở rộng này, bởi vì họ muốn NATO sẽ bảo vệ các quốc gia như
Hungary hay Phần Lan. Một số người theo tư tưởng thực tế thì cũng ủng hộ chính
sách này. Họ cho rằng hiện tại, nước Nga vẫn cần được kiểm soát.
Tuy nhiên, đa số
những người thực tế thì vẫn phản đối sự mở rộng, vì họ tin rằng một cường quốc
đang bị hạn chế bởi dân số đang già hóa, cùng với nền kinh tế một chiều thì
thực sự không cần thiết phải kiểm soát chặt. Và họ e ngại rằng sự mở rộng này
sẽ chỉ khiến cho Moscow
có một động lực để gây hấn trên khu vực Đông Âu. Nhà ngoại giao Mỹ George
Kennan đã nêu rõ quan điểm này trong một bài phỏng vấn năm 1998, chỉ ngay sau
khi Thượng viện Mỹ thông qua chặng đầu tiên trong chương trình mở rộng NATO.
“Tôi nghĩ rằng nước Nga sẽ dần dà phát sinh các phản ứng tiêu cực, và điều này
sẽ ảnh hưởng đến các chính sách của họ nữa,” ông nói. “Tôi cho rằng đây sẽ là
một sai lầm chiến lược. Chẳng có lý do nào cho việc này cả. Sẽ chẳng có việc ai
hăm dọa ai cả.”
Trong khi đó, hầu
hết những người theo quan điểm tự do thì lại ủng hộ sự mở rộng này, và bao gồm
cả những thành viên chủ chốt của chính phủ Clinton. Họ tin tưởng rằng kết thúc của Chiến
tranh lạnh đã chuyển biến hoàn toàn cục diện chính trị quốc tế sang một trạng
thái mới, và trật tự thế giới mới đã thay đổi hoàn toàn, thay thế những lý
thuyết thực dụng đã từng được áp dụng lên các chính phủ châu Âu. Nước Mỹ không
phải quốc gia “không thể thiếu,” như Ngoại trưởng Madeleine Albright đã đề cập,
Mỹ cũng là một quốc gia có vai trò dẫn dắt một cách trung hòa, và do đó, gần
như không được đánh giá như một mối đe dọa với Moscow. Mục tiêu là, quan trọng hơn cả, là
làm sao biến phần còn lại của châu Âu trở thành các quốc gia giống như Đông Âu.
Vì thế, nước Mỹ và
các đồng minh của họ đã tìm cách đẩy mạnh phong trào dân chủ ở các quốc gia
Đông Âu, cùng với việc đẩy mạnh sự tự chủ kinh tế của họ, và đưa họ vào các tổ
chức quốc tế. Chiến thắng trong cuộc luận bàn tại Mỹ, những người mang tư tưởng
tự do lại vấp phải những khó khăn trong việc tìm cách thuyết phục những đồng
minh châu Âu hỗ trợ sự mở rộng của NATO. Sau tất cả, với những thành tựu đã đạt
được trong quá khứ, châu Âu còn thấy hứng thú hơn cả Mỹ, với quan điểm cho rằng
địa chính trị giờ đây không còn là một vấn đề đặc biệt quan trọng, và rằng một
nền trật tự tự do đầy đủ có thể duy trì được hòa bình ở châu Âu.
Vậy là cho đến
nay, những tư tưởng tự do đã hoàn toàn khống chế các lý luận về vấn đề an ninh
châu Âu trong nửa đầu thế kỷ này, thậm chí ngay cả các nước đồng minh cũng đã
thông qua những chính sách phát triển theo hướng mở cửa thì sự mở rộng của NATO
giờ chỉ vấp phải rất ít những ý kiến trái chiều theo tư tưởng thực tế. Thế giới
quan theo tư tưởng tự do giờ đã được chấp nhận một cách rất giáo điều trong
giới chính trị Mỹ. Chẳng hạn như vào tháng 3, tổng thống Barack Obama đã gửi
một bài phát biểu đến Ukraine, mà trong đó ông đã liên tục nhấn manh “lý tưởng”
đã thúc đẩy các chính sách của giới phương Tây và cách mà những lý tưởng này
“đang bị đe dọa bởi những cái nhìn xưa cũ và lạc hậu về quyền lực.” Hồi đáp của
ngoại trưởng Mỹ John Kerry về cuộc khủng hoảng ở Crimea
cũng đã phản ánh lại quan điểm này: “Bạn không thể đứng trong thế kỷ hai mốt mà
ứng xử theo cách của những thế kỷ mười chín, tấn công một đất nước khác với
những lý do vu khống được.”
Quan trọng hơn cả,
hai bên đang chơi với hai luật chơi khác nhau: Putin và những đồng bào của mình
thì đang suy nghĩ và hành động theo những quan điểm thực tế, trong khi những
đối tác phương Tây của họ thì lại cứ bám vào những ý tưởng về tự do chính trị quốc
tế. Kết quả là Mỹ và các đồng minh của họ cũng không nhận ra họ đang là nguyên
nhân chính cho cuộc khủng hoảng ở Ukraine.
Trò đổ lỗi
Trong cùng cuộc
phỏng vấn vào năm 1998, Kennan đã tiên đoán rằng sự mở rộng của NATO sẽ gây ra
khủng hoảng, và ngay sau đó, những người ủng hộ cho sự mở rộng đã “nói rằng,
chúng tôi đã nói với ông rằng vì họ là người Nga mà.” Và ngay lập tức, hầu hết
những nhà ngoại giao phương Tây đã mô tả về ông Putin như một thủ phạm thực sự
cho tình trạng bất ổn ở Ukraine.
Vào tháng 3, theo tờ Thời báo New York, thủ tướng Đức Angela
Merkel đã gián tiếp đề cập rằng ông Putin đã ứng xử không hợp lý, và cũng bảo
với ông Obama rằng, ông ta “đang đứng trong một thế giới khác.” Mặc dù không
nghi ngờ gì rằng, Putin là một người có khuynh hướng xử sự độc đoán, nhưng cũng
chẳng có một bằng chứng nào có thể chứng minh cho cáo buộc rằng ông mang tinh
thần không ổn định. Trái lại, ông là một nhà chiến lược hàng đầu, mà ắt hẳn bất
cứ ai muốn trở thành đối thủ của ông trên trường chính trị quốc tế đều phải dè
chừng và kính trọng.
Các nhà phân tích
còn đưa ra các cáo buộc hợp lý lẽ hơn, rằng Putin đang hối tiếc vì sự sụp đổ
của nhà nước Liên minh Xô viết, và ông sẽ quyết tâm vực dậy nó, bằng việc mở
rộng đường biên giới của nước Nga. Dựa trên lý do này, Putin đã tiếp quản
Crimea, và bây giờ đang dò xét xem bao giờ sẽ là thời điểm thích hợp để tiến
tới tiếp quản Ukraine, hoặc ít nhất sẽ là phần miền Đông nước này, và thực sự
là ông đã thực hiện ứng xử khá là thô bạo với một vài quốc gia láng giềng khác
với Nga. Và Putin, có vẻ như là một đại diện cho tinh thần Adolf Hitler kiểu
mới, và việc tiến tới ký kết bất kỳ một thỏa hiệp nào với ông ấy đều có thể lặp
lại sai lầm xảy ra ở Munich.
Do đó, NATO phải chấp nhận Georgia
và Ukraine,
để có thể kiểm soát Nga trước khi họ gây dựng tầm ảnh hưởng lên trển các nước
láng giềng của mình và đe dọa đến cả các nước Tây Âu.
Tuy nhiên, lập
luận này nhanh chóng sụp đổ khi suy xét một cách cẩn thận. Nếu Putin có quyết
tâm xây dựng một nước Nga rộng lớn hơn, ắt hẳn ý định của ông ta đã phải được
thực hiện trước ngày 22 tháng 2. Thế nhưng, gần như chẳng có bằng chứng nào cho
thấy ông đã quyết tâm đoạt quyền kiểm soát Crimea, cũng như là các vùng lãnh
thổ khác ở Ukraine
trước đó. Thậm chí ngay cả những nhà lãnh đạo phương Tây mang tinh thần ủng hộ
sự mở rộng của NATO cũng đã không đứng ngoài nỗi lo rằng nước Nga sẽ sử dụng
đến các biện pháp quân sự. Động thái của Putin ở Crimea
làm họ hết sức ngạc nhiên và dường như, đó đã là một phản ứng tự nhiên với vụ
lật đổ ông Yanukovych. Ngay sau đó, Putin đã tuyên bố không ủng hộ sự li khai
của nhân dân Crimea, trước khi rất nhanh chóng
thay đổi quyết định của mình.
Bên cạnh đó, ngay
cả khi nước Nga muốn mở rộng, họ vẫn thiếu khả năng để có thể dễ dàng tiếp quản
và chiếm lấy miền Đông Ukraine, chưa nói đến là toàn bộ đất nước này. Hơn 15
triệu dân – chiếm đến một phần ba dân số của Ukraine – nằm giữa sông Dniepper,
con sông chia đôi đất nước, và biên giới với Nga. Tuyệt đại đa số những người
có mong muốn giữ nguyên phần còn lại của lãnh thổ Ukraine sẽ không chịu khuất phục sự
chiếm đóng của quân đội Nga. Hơn thế nữa, quân đội Nga chỉ thuộc về mức trung
tầm, vốn chẳng thể hiện được rằng mình sẽ có thể trở nên mạnh hơn như một đội
quân Wehrmacht hiện đại, và cũng có rất ít khả năng có thể ổn định được toàn bộ
đất nước Ukraine.
Moscow dường
như cũng không thể chắc chắn được rằng mình có đủ khả năng để chi trả các chi
phí cho cuộc bình ổn này không, nền kinh tế yếu kém của họ có thể sẽ còn phải
chịu những tổn hại nặng nề hơn trước tác động của những lệnh trừng phạt kinh
tế.
Nhưng ngay cả khi
nước Nga có khoa trương về những máy móc quân đội hùng hậu, và nền kinh tế ấn
tượng của mình, thì ít nhất họ vẫn không thể chứng tỏ được khả năng tiếp quản Ukraine. Chúng
ta chỉ cần nhìn vào những kinh nghiệm của Xô Viết và Mỹ ở Afghanistan, những
kinh nghiệm của Mỹ tại Việt Nam và Iraq, và những kinh nghiệm của Nga ở
Chechnya để có thể nhận thấy sự tiếp quản một đất nước bằng quân đội thường sẽ
dẫn đến những hậu quả tồi tệ. Putin chắc hẳn phải hiểu rằng việc cố gắng chiếm
quyền kiểm soát Ukraine
sẽ rất khó khăn, tựa như nuốt một con nhím vậy. Các hồi đáp trước những sự kiện
này của ông sẽ chỉ mang tính dè chừng, chứ không thiên về phản kháng.
Một lối
thoát
Hầu hết những nhà
ngoại giao phương Tây đang tiếp tục phủ nhận một sự thực rằng các ứng xử của
Putin có thể xuất phát từ một mối lo ngại an ninh đúng nghĩa. Cũng không đáng
ngạc nhiên khi họ đã cố gắng để điều chỉnh chúng và gia tăng các chính sách
hiện thời của họ, và ra các chính sách trừng phạt Nga để ngăn chặn những hành
động xâm phạm của Nga. Mặc dù Kerry đã duy trì quan điểm rằng “tất cả các
phương án đã được đem ra thảo luận”, thì cả Mỹ và các đồng minh NATO đều không
có sự chuẩn bị gì cho phương án sử dụng quân sự để bảo vệ Ukraine. Phương Tây
đang dựa dẫm vào những chính sách trừng phạt kinh tế của mình để ngăn chặn việc
nước Nga tiếp tục hỗ trợ quân nổi dậy ở phía Đông Ukraine. Vào tháng 7, Mỹ và các
nước EU đã áp đặt thêm các lệnh trừng phạt cấm vận kinh tế đợt ba cho nước Nga,
và nhắm tới chủ yếu các cá nhân cấp cao có quan hệ chặt chẽ với chính phủ Nga,
cùng một số ngân hàng tên tuổi, các công ty năng lượng, và các doanh nghiệp
quốc phòng. Họ cũng đưa ra lời đe dọa sẽ triển khai thêm những đợt trừng phạt
khác, mạnh tay hơn đợt này, và sẽ nhắm đến tất cả các thành phần của nền kinh
tế Nga.
Những biện pháp
này hiệu quả có vẻ không cao. Những biện pháp trừng phạt mạnh tay giờ đây dường
như đã không còn hiệu quả chung nữa, và các nước Tây Âu, đặc biệt là Đức, sẽ
không đưa ra một luật trừng phạt mới với nỗi lo bị nước Nga trả thù, và giáng
những đòn nặng nề lên nền kinh tế EU. Nhưng thậm chí nếu Mỹ có thể thuyết phục
các đồng minh của mình ban hành các phương pháp trừng phạt khắc nghiệt này,
Putin vẫn sẽ không sẽ không thay đổi việc ra quyết định của mình. Lịch sử đã
cho thấy đất nước này sẽ sẵn sàng hứng chịu tất cả các lệnh trừng phạt để bảo
vệ những lợi ích chiến lược của mình. Và chẳng có lý do nào để Nga đưa ra một
ngoại lệ cho trường hợp này.
Các nhà lãnh đạo
phương Tây cũng đã bám dựa vào các chính sách khiêu khích đã gây ra cuộc khủng
hoảng ngay từ đầu. Vào tháng 4, phó tổng thống Mỹ Joseph Biden đã có cuộc gặp
với cơ quan lập pháp của Ukraine
và bảo họ rằng, “Đây là cơ hội thứ hai để thực hiện lời hứa đã được đưa ra
trong cuộc Cách mạng Cam.” John Brennan, giám
đốc CIA, đã không hỗ trợ được gì khi đó, cùng tháng, ông đã đến thăm Kiev trong
một chuyến đi mà được Nhà Trắng cho biết là nhằm mục tiêu cải thiện hợp tác an
ninh khu vực với chính phủ Ukraine.
Trong khi đó, EU
lại tiếp tục đẩy nhanh chương trình Đối tác phương Đông của họ. Vào tháng 3,
José Manuel Barroso, chủ tịch Ủy ban châu Âu, đã đưa ra suy nghĩ của EU về
Ukraine, đã nói rằng, “Chúng ta có một khoản nợ, một nghĩa vụ phải hỗ trợ quốc
gia này, và chúng ta sẽ làm việc, để tiến đến với họ càng gần, càng tốt.” Và
chắc chắn hơn nữa, ngày 27 tháng 6, EU và Ukraine đã ký một thỏa thuận kinh tế
mà Yanukovych đáng tiếc đã từ bỏ nó bảy tháng về trước. Cũng vào tháng 6 đó,
tại cuộc họp của bộ trưởng ngoại giao các nước thành viên NATO đã thống nhất
rằng quân đồng minh sẽ để ngỏ cho các thành viên mới, mặc dù các bộ trưởng
ngoại giao đã không thẳng thắn đề cập đến Ukraine. “Không một quốc gia thứ ba
nào có quyền ngăn chặn việc mở rộng của NATO,” tổng thư ký NATO Anders Fogh
Rasmussen thông báo. Các bộ trưởng ngoại giao cũng nhất trí đồng thuận về việc
hỗ trợ theo nhiều cách khác nhau cho việc cải thiện năng lực quân sự của Ukraine trong
các lĩnh vực chung như chỉ huy và điều hành, công tác hậu cần và an ninh điện
tử. Các lãnh đạo người Nga, lẽ tự nhiên sẽ phản bác những hành động này; những
phản ứng của phương Tây với cuộc khủng hoảng sẽ chỉ làm tình hình thêm tồi tệ.
Có một giải pháp
cho cuộc khủng hoảng tại Ukraine,
tuy nhiên – dẫu nó sẽ buộc phương Tây phải nhìn nhận quốc gia này theo một cách
hoàn toàn mới. Nước Mỹ và các đồng minh của họ cần phải từ bỏ kế hoạch phương
Tây hóa Ukraine và thay vào đó, hãy ngắm đến việc xây dựng một quốc gia trung
lập giữa NATO và Nga, tương tự như vai trò của Austria trong cuộc Chiến tranh
lạnh. Các nhà lãnh đạo phương Tây nên tìm hiểu được vấn đề của Ukraine với
Putin, rằng họ không thể xây dựng một chính quyền chống nước Nga ở đó được.
Điều này cũng không có nghĩa là trong tương lai, sẽ có sự hình thành một chính
phủ Ukraine
thân Nga và chống phương Tây. Trái lại, mục đích chính là một Ukraine độc
lập, chẳng thuộc quyền lực của cả phe thân Nga hay về phe phương Tây.
Để đạt được mục
tiêu này, nước Mỹ và các nước đồng minh cần phải chính thức hóa sẽ bỏ qua việc
mở rộng NATO với các nước Georgia
và Ukraine.
Phương Tây cũng nên hỗ trợ việc định hình một kế hoạch giải cứu kinh tế với
Ukraine, với vốn hình thành tự chung sức của các nước EU và quỹ IMF, nước Nga
và cả nước Mỹ – một lời mời mà có thể Moscow sẽ rất chào đón, còn phải kể đến
lợi ích của một Ukraine thịnh vượng và ổn định trên sườn Tây của nước Nga. Và
phương Tây cũng nên cân nhắc giới hạn lại những nỗ lực xây dựng xã hội bên
trong Ukraine.
Đã đến lúc phải ngừng những việc sẽ xúc tiến một cuộc Cách mạng cam khác. Ngoài
ra, các nhà lãnh đạo Mỹ và châu Âu cũng nên khuyến khích Ukraine tôn
trọng những quyền của thiểu số, và đặc biệt là những quyền ngôn ngữ của bộ phận
những người nói tiếng Nga.
Một số người có
thể tranh cãi về việc thay đổi các chính sách về Ukraine vào bây giờ đã là quá muộn,
và sẽ làm tổn hại nghiêm trọng uy tín của nước Mỹ trên toàn thế giới. Không
nghi ngờ gì rằng sẽ có những hao tổn nhất định, nhưng những tổn thất nếu cố
gắng duy trì một chiến lược sai lầm sẽ còn lớn hơn. Hơn thế nữa, các quốc gia
khác hầu như sẽ tôn trọng một quốc gia học được từ những sai lầm của họ và hơn
hết tìm ra được những giải pháp hữu hiệu để đương đầu với những vấn đề trước
mắt. Lựa chọn này, rõ ràng là rất triển vọng cho nước Mỹ.
Chúng ta cũng nghe
nói đến rằng Ukraine nên có
quyền quyết định họ muốn làm đồng minh với ai và nước Nga không có quyền ngăn
chặn Kiev gia
nhập với phương Tây. Thật là nguy hiểm nếu để Ukraine nghĩ vậy về chính sách
ngoại giao của họ. Một sự thật đáng buồn là điều này thường đúng, trên cuộc
chơi của những nước có thế mạnh chính trị. Những quyền trừu tượng, kiểu như
quyền tự quyết hầu như thật vô nghĩa khi các nước lớn lôi kéo các nước nhỏ vào
các tranh chấp. Cuba
có quyền thành lập một liên minh quân sự với Xô Viết trong thời kỳ Chiến tranh
lạnh không? Nước Mỹ chắc chắn đã không nghĩ vậy, và người Nga cũng nghĩ giống
thế về việc để Ukraine
gia nhập vào phương Tây. Đó là quyền lợi của Ukraine để hiểu sự thực lẽ đời và
ứng xử cẩn trọng với những nước láng giềng đầy quyền lực.
Tuy nhiên, ngay cả
với những ai từ chối những lập luận này, và tin rằng Ukraine có quyền xin tham
gia vào EU hay NATO, một thực tế vẫn còn đó là việc Mỹ và các đồng minh châu Âu
của họ cũng có quyền đề từ chối lời đề nghị này. Chẳng có lý do gì phương Tây
phải cho Ukraine một chỗ để
dựa vào khi nước này bản thân đang thực hiện những chính sách ngoại giao sai
lầm, nhất là khi với họ, sự an toàn của Ukraine cũng không phải là một vấn
đề sống còn. Chiều theo mong mỏi của một số người dân Ukraine, thật
chẳng đáng với những xung đột và thù địch mà điều này gây ra, đặc biệt là cho
người dân nước này.
Dĩ nhiên, một số
nghiên cứu có thể thừa nhận rằng có thể NATO đang ứng xử rất kém trong quan hệ
với Ukraine, và thực sự thì Nga là một đối thủ ngày càng mạnh hơn –và phương
Tây không có cách nào khác ngoài việc tiếp tục những chính sách hiện thời của
họ. Nhưng quan điểm này hoàn toàn sai lầm. Nước Nga đang là một cường quốc đang
suy yếu, và họ sẽ chỉ ngày càng suy yếu đi. Ngay cả khi Nga có là một cường
quốc đang mạnh hơn, thì tuy vậy, họ cũng chẳng có ý nghĩa gì để cho phép Ukraine gia
nhập NATO. Lý do đơn giản là, nước Mỹ và các nước đồng minh châu Âu không coi Ukraine như một
lợi ích chiến lược, và sự không mong muốn phải can thiệp quân sự cho việc hỗ
trợ nước này đã được chứng minh. Do đó, thật quá đỗi ngớ ngẩn để cho gia nhập
một thành viên NATO mới mà các nước thành viên khác còn không có mong muốn bảo
vệ họ. NATO có thể mở rộng trong quá khứ là do tư tưởng tự do đã cho phép các
nước đồng minh sẽ không đề cao một sự đảm bảo an ninh, nhưng sự lớn mạnh gần
đây của nước Nga đã khiến cho việc trao cho Ukraine cơ hội gia nhập NATO sẽ đặt
nước Nga và phương Tây vào một cuộc xung đột.
Bám chặt vào các
chính sách hiện tại cũng sẽ càng làm phức tạp hóa quan hệ của phương Tây với Moscow về các vấn đề
khác. Nước Mỹ cần sự hỗ trợ của Nga trong việc rút các quân trang thiết bị của
Mỹ từ Afghanistan qua lãnh thổ của Nga, hoặc đạt đến một thỏa thuận hạt nhân
với Iran, hay việc ổn định tình hình ở Syria. Trên thực tế, Moscow đã từng giúp
đỡ Washington trong tất cả những vấn đề trên trong quá khứ; mùa hè năm 2013,
khi Putin đã giải cứu cho các chính sách của Obama và thực hiện những nỗ lực
thỏa thuận với Syria, khiến nước này thực hiện việc giải giáp vũ khí hóa học
của họ từ đó, tránh được nguy cơ những cuộc tấn công quân sự mà ông Obama đã
đưa ra. Nước Mỹ, một lúc nào đó cũng sẽ cần đến những hỗ trợ của nước Nga trong
việc kiềm chế một Trung Quốc đang lớn mạnh. Tuy nhiên, những chính sách của Mỹ
hiện thời lại chỉ cho Moscow
tiến đến gần hơn với Bắc Kinh.
Nước Mỹ và các
nước đồng minh châu Âu của họ giờ đang phải đương đầu với những lựa chọn về Ukraine. Họ có
thể duy trì chính sạch hiện tại, điều này sẽ làm căng thẳng thêm xung đột với
Nga, và làm hỏng mọi nỗ lực với Ukraine
– một kịch bản mà tất cả mọi người đều sẽ là kẻ thua cuộc. Hoặc họ có thể thay
đổi cách làm của mình, và xây dựng một Ukraine thịnh vượng và trung lập, một
kết quả sẽ không làm tổn hại đến nước Nga, và cho phép phương Tây có cơ hội sửa
chữa mối quan hệ với Moscow. Bằng cách này thì tất cả đều là người thắng cuộc,
đôi bên cùng có lợi.
- Bản gốc tiếng Anh xem tại
đây.
-----
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét