Kichbu
theo danluan.org`
Tháng 2 năm 1956 đã xảy ra 1 sự kiện
lịch sử quốc tế vô cùng quan trọng trong phong trào cộng sản thế giới. Đó là “Bản
báo cáo Mật“ của N.S Khrushop, bí thư thứ nhất BCHTU Đảng CS Liên Xô đọc
trong Đại hội lần thứ 20 của Đảng cộng sản Liên Xô.
Gọi là báo cáo mật
vì chỉ những đại biểu Liên Xô mới được dự phiên họp kín này. Không ai, kể cả
các đại biểu của các Đoàn đại biểu ĐCS “anh em“ được mời dự Đại hội cũng không
được dự. Sau đó, mỗi trưởng đoàn đại biểu ĐCS dự Đại hội được phát riêng một
bản báo cáo, trong đó có Chu Đức là trưởng đoàn của Đảng cộng sản Trung quốc, Trường
Chinh là trưởng đoàn của Đảng lao động Việt Nam.
Sợ dứt dây sẽ động
rừng, khi về nước, không trưởng đoàn nào dám báo cáo lại nội dung bản báo cáo
mật này của Khrushop với các đảng viên. Riêng một thành viên trong đoàn BaLan
là Đambrốpski đã cho phát hành bản báo cáo mật của Khrushop trong nội bộ Đảng. Một
trong những bản này đã được đăng trên tờ New York Time tại Hoa Kỳ số ra ngày
16/3/1956. Tiếp theo là đăng trên tờ Le Monde của Pháp. Sau đó, chỉ trong 2
tháng, hầu hết các báo trên thế giới đã đăng lại. Bản báo cáo mật của Khrushop đã
được Đỗ Tịnh dịch nguyên văn từ bản tiếng Pháp sang tiếng Việt và phát hành ở Paris, thuộc Tủ sách
nghiên cứu Boite Postale 246. 75224 Paris cedex
11 France.
Đây là bản cáo
trạng, xoá bỏ mọi huyền thuyết tốt đẹp mà bộ máy tuyên truyền của ĐCS Liên Xô
và của ĐCS các nước đã tô vẽ cho Stalin và để lộ nguyên hình của Stalin là 1
nhà độc tài toàn trị khét tiếng tàn bạo, đã đàn áp dã man các phong trào của
nhân dân Liên Xô đòi quyền dân chủ xã hội và thanh trừng nội bộ khốc liệt tất
cả những ai bất đồng chính kiến với ông ta.
Mao Trạch Đông kịch
liệt chống lại bản báo cáo này của Khrutsov vì ông ta chính là Stalin của
ĐCSTQ.
Theo báo cáo mật
của Khrushop, để thực hiện những tội ác đó, một mặt Stalin tạo ra quan niệm “kẻ
thù của nhân dân“ để loại trừ tất cả những người bất đồng chính kiến với ông
ta, không cần đến việc vận dụng các chuẩn mực đạo lý và các chuẩn mực pháp
luật, cũng không cần phải đấu tranh tư tưởng. Mặt khác, Stalin dựa vào các cơ
quan hình sự trung thành với riêng ông ta, dùng các phương pháp bạo lực hành
chính, đàn áp và khủng bố, dùng nhục hình cưỡng bức các bị cáo phải “thú tội“
với những tội mà họ không hề có. Nhiều vụ bắt bớ đồng loạt hàng ngàn người. Nhiều
vụ hành quyết không cần đưa ra xét xử tại Toà án, đã tạo ra không khí lo sợ
khủng bố trong xã hội Liên Xô một thời gian dài. Ở thời kỳ đó, nhiều “ Bệnh
viện tâm thần “ đã được thành lập ở Liên Xô để giam giữ những người có ý kiến
bất đồng với các chính sách của Stalin, kể cả những ý kiến thuộc về những vấn
đề thực tiễn, không liên quan gì đến lý luận. Stalin viện cớ “càng tiến lên
chủ nghĩa xã hội càng có nhiều kẻ thù và cuộc đấu tranh giai cấp càng trở nên
quyết liệt nên càng phải tăng cường các biện pháp trấn áp và thanh trừng những
người bất đồng chính kiến trong nội bộ“. Trong rất nhiều trường hợp, các vụ
án được nguỵ tạo để đàn áp những người có ý kiến bất đồng với Stalin, với những
lời buộc tội xảo trá, làm cho nhiều người vô tội bị giết hại. Nhiều người bị vu
khống và do không chịu nổi tra tấn dã man, đã phải tự gán cho mình những tội
tày đình và cực kỳ vô lý.
Chỉ riêng trong 2
năm 1937 và 1938, Stalin đã duyệt 385 danh sách do Êdốp đứng đầu Toà án quân sự
đệ trình lên, trong đó buộc tội hàng ngàn người với tội “kẻ thù của nhân dân“.
Trong số 1,7 triệu
hồ sơ đã được giải mật, có đến 700.000 người (bảy trăm ngàn) đã bị giết oan vào
những năm 1937 và 1938 với tội bị gán cho là “Phản cách mạng“. Chỉ riêng trong
nhà tù của Uỷ ban an ninh quốc gia (KGB), từ tháng 8/1937 đến tháng 10/1938, Stalin
đã cho bắn bỏ 20.760 người (hai mươi ngàn bảy trăm sáu mươi). 98 (chín mươi tám)
trong số 139 uỷ viên BCHTU ĐCSLX được bầu trong Đại hội lần thứ 17 (chiếm 70%)
phần lớn xuất thân từ công nhân, đã bị bắt và bị kết tội là “kẻ thù của nhân
dân“. 1108 (một ngàn một trăm lẻ tám) người trong số 1956 đại biểu đã dự Đại
hội ĐCSLX lần thứ 17 (chiếm 57%) đã bị bắt và bị kết tội “Phản cách mạng“ do
bất đồng với đường lối chính sách của Stalin.
Tháng 6 năm 1937, Thứ
trưởng quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng Hồng quân, Nguyên soái Tukhachepsky và
7 đại tướng đã bị gán tội làm gián điệp cho nước ngoài và tất cả đều đã bị xử
bắn (về sau đã được minh oan).
Các vụ án đã được
thẩm tra lại. 3 (ba) trong số những vụ án đó đã được đọc trong báo cáo mật của
Khrushop là 3 vụ án của Ây-khê, Rútduxtắc và Rođenblum.
Ây-khê là uỷ viên
dự khuyết Bộ chính trị, bị bắt ngày 29/4/1938 mà không có lệnh bắt của công tố
viên. Ây-khê bị tra tấn và bị buộc ký vào biên bản làm sẵn, thú tội “đã
hoạt động chống lại chính quyền Xô Viết“. Ngày 01/12/1939 Ây-khê viết thư
cho Stalin. Trong thư Ây-khê viết: ”Tôi không phạm tội gì trong tất cả
những tội người ta đã gán cho tôi. Sự thật là tôi không chịu nổi sự hành hạ của
Ushakốp và Nhicôlaép (người của Bộ Nội vụ). Ushakốp biết tôi bị gãy xương sườn
chưa lành hẳn nên hắn gây cho tôi đau đớn khủng khiếp khi hắn thẩm cung và bức
tôi phải thú tội những tội do Ushakốp đọc cho tôi viết“. Phiên toà xử
Ây-khê vào ngày 02/2/1940. Trước Toà, Ây-khê không nhận bất kỳ tội nào và tuyên
bố: ”Tất cả cái gọi là lời thú tội của tôi không có 1 từ nào là sự thật. Tôi
tuyên bố trước Toà là tôi vô tội“. Nhưng Ây-khê vẫn bị hành quyết vào ngày
04/2/1940.
Rútduxtắc là uỷ
viên dự khuyết Bộ chính trị, chủ tịch uỷ ban kiểm tra trung ương. Rúduxtắc có ý
kiến bất đồng với Stalin. Stalin thành kiến đến mức không muốn nói chuyện với
Rútduxtắc và Rutduxtắc đã trở thành nạn nhân của sự độc đoán của Stalin. Rutduxtac
bị bắt. Trước Toà án quân sự, Rútduxtắc tuyên bố: ”Trong Bộ nội vụ có một
trung tâm chuyên bịa đặt ra các vụ án buộc những người vô tội phải nhận những
tội mà họ không bao giờ vi phạm. Những phương pháp điều tra của trung tâm này
đã cưỡng ép người ta phải dối trá vu khống cho những người hoàn toàn vô tội, chưa
kể đến chuyện vu khống cho những người đã bị buộc tội“. Phiên Toà chỉ xử
Rutduxtắc trong 20 phút. Rútduxtắc bị kết án tử hình và đã bị xử bắn.
Theo Khrushop, vụ
án Ây-khê và Rútduxtắc đã được thẩm tra lại và 2 ông đã được phục hồi danh dự.
Vụ án Rodenblum
còn bỉ ổi hơn nhiều. Rodenblum bị bắt và bị gọi vào Văn phòng của Dukốpski
(người của Bộ nội vụ). Dukốpski hứa sẽ trả tự do cho Rodenblum với điều kiện
khi ra trước Toà, Rodenblum thú nhận có tội “hoạt động phá hoại, gián điệp
và gây rối do 1 trung tâm khủng bố ở Leningrad
tổ chức vào năm 1937”. Dukốpski nói Bộ nội vụ sẽ biên soạn sẵn cho
Rodenblum một sơ đồ các chi nhánh của trung tâm khủng bố đó. Rodenblum phải
thuộc để trả lời các câu hỏi của Toà án sẽ đưa ra. Nếu Rodenblum khai báo với
Toà đúng như Bộ nội vụ đã biên soạn sẵn thì họ sẽ chu cấp cho Rogenblum suốt
đời. Ngược lại thì Rodenblum sẽ mất mạng.
Cũng theo báo cáo
mật của Khrushop, Stalin không chỉ đàn áp, tước bỏ quyền dân chủ xã hội của
người dân nước cộng hoà liên bang xô viết. Stalin còn đày đoạ nhiều dân tộc
trong liên bang xô viết. Năm 1943, Stalin đã ra quyết định buộc toàn bộ dân tộc
Karachai và dân nước cộng hoà tự trị Kan-mức phải bị đuổi đi khỏi lãnh thổ họ
đang sinh sống vì họ bất đồng với chính sách của Stalin. Năm 1944, toàn dân
nước cộng hoà tự trị Banca cũng chịu chung số phận như dân tộc Karachai và dân
tộc Kan-mức.
Bản báo cáo mật
này của Khrushop có tên là “Về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó“.
Vì Khrushop quan
niệm “không được giặt quần áo bẩn trước mắt kẻ thù“, nên khi đó nguyên nhân
đích thực của vấn đề này vẫn chưa được giải thích rõ. Sau khi Đại hội ĐCS Liên
Xô lần thứ 20 kết thúc, một câu hỏi được tiếp tục tranh luận trong nhiều Đảng
cộng sản ở Phương Tây là: ”Tại sao cách mạng vô sản đã được thực hiện ở
Liên Xô. Ở đó giai cấp tư sản đã bị xoá bỏ. Giai cấp vô sản đã trở thành giai
cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa mà ở đó lại tồn tại chế độ độc
tài toàn trị tàn bạo như vậy?”.
Để tìm câu trả lời
đích thực, các nhà sử học đã tìm ở thực trạng xã hội Liên Xô vào thời điểm đó, khi
Lênin mất vào năm 1924 và Stalin trở thành người kế tục. Như Lênin đã viết
trong bài “Thà ít mà tốt“ (Lênin toàn tập, tập 45) rằng: ”Chúng ta chưa đủ
văn minh để có thể trực tiếp chuyển lên chủ nghĩa xã hội“ (theo lý tưởng
nhân đạo nguyên thuỷ của Marx) thì Stalin chính là 1 trong những con người chưa
đủ văn minh như vậy.
Mặt khác, chế độ
chính trị toàn trị độc tài dựa trên chuyên chính vô sản đã đem lại rất nhiều
đặc quyền đặc lợi cho 1 giai tầng mới hình thành ở Liên Xô là giai tầng của
những quan chức quan liêu xuất thân từ các đảng viên cộng sản trong bộ máy Đảng
và Nhà nước Liên Xô, đang độc quyền lãnh đạo và cầm quyền, mà theo Lênin viết
trong phần 3, bài: ”Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết“, khi ông
đã thức tỉnh thì đó là những kẻ bịp bợm, những kẻ bất tài, những kẻ lười biếng
ăn bám, những kẻ vô lương tâm trong số các Thủ trưởng đang bám vào Chính quyền
xô viết để mong trở thành các “ngôi sao“ trong nghề ăn cắp của công.
Để bảo vệ đặc
quyền đặc lợi của họ, họ phải ra sức bảo vệ chế độ chính trị đó. Họ phải vun
đắp uy danh cho người đứng đầu là Stalin. Họ đã dùng mọi cách tô vẽ để biến
Stalin thành con người nhân hậu, thông hiểu mọi thứ trên đời như một vị thánh
sống, đủ trí tuệ suy nghĩ thay cho mọi người, có thể làm bất kỳ việc gì mà
không bao giờ mắc sai lầm trong thực tiễn, rồi núp bóng của Stalin để duy trì
các đặc quyền, chống lại những đòi hỏi của nhân dân về dân chủ xã hội và chủ
nghĩa Mác nguyên thuỷ đã bị biến dạng.
Trong xã hội Liên
Xô thời điểm đó, ai phê bình Stalin là chống lại Lãnh tụ, chống lại Lãnh tụ là
chống Đảng mà chống Đảng tức là chống chủ nghĩa xã hội, phải chuyên chính vô sản,
phải bị tiêu diệt. Quyền lực của Stalin không bị kiểm soát dẫn đến ngày càng
lạm quyền. Khi uy thế và quyền lực của Stalin đã vượt quá giới hạn mà những kẻ
xu nịnh và tâng bốc mong muốn thì chính họ cũng bị trở thành nạn nhân của những
trò hề do chính họ tạo ra, rồi bất kỳ ai bất đồng ý kiến với Stalin đều bị kết tội
là “kẻ thù của nhân dân“ và bị Stalin trừng phạt.
Theo Thủ tướng Nga
Putin thì “những người bị thảm sát là những người con ưu tú nhất của nước
Nga và Liên Xô thời đó“. Vì thế, như Khrushop đã đọc trong báo cáo mật: sự
phát triển của mọi ngành hoạt động, từ kinh tế – xã hội đến hoạt động văn hoá
trong xã hội Liên xô khi đó đều bị tê liệt. Hệ thống lãnh đạo được áp dụng ở Liên
Xô trong những năm cuối đời của Stalin đã trở thành vật chướng ngại đối với con
đường phát triển của xã hội Liên Xô.
Trong ngày kỷ niệm
65 năm chiến thắng chống phát xít, Tổng thống Nga Metvedep nói “Stalin đã
phạm nhiều tội ác chống lại nhân dân và không thể tha thứ. Dù từng cá nhân có
quyền đánh giá khác nhau về Stalin thì quan điểm của Nhà nước Nga hiện nay là
Chủ nghĩa Stalin không thể quay lại trên nước Nga nữa“.
Bản báo cáo mật
của Khrushop đã mở đầu cho trào lưu đấu tranh chống lại chế độ toàn trị độc tài
trong các quốc gia thuộc phe xã hội chủ nghĩa và cuối cùng đã làm thay đổi bộ
mặt chính trị trên hành tinh như ngày nay chúng ta đang sống.
Trong suốt 30 năm
ở thời kỳ chiến tranh lạnh, nhiều lãnh tụ cộng sản đã sùng bái Stalin và tỏ ra
trung thành với chủ nghĩa Stalinít. Ở Việt Nam, Tố Hữu, uỷ viên Bộ chính trị ĐLĐVN
đã làm thơ tâng bốc Stalin: ”Yêu biết mấy nghe con tập nói. Tiếng đầu lòng
con gọi Stalin. Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một,
thương ông Stalin thương mười”. Đến năm 1958, khi bản báo cáo mật của
Khrushop được tiết lộ rộng rãi, dân chúng các nước Balan, Hungarie, Tiệp khắc
đã đập phá các tượng đài của Stalin. Nhiều Đảng Cộng sản Châu Âu như Pháp,
Italia, Tây Ban Nha một thời tôn sùng chủ nghĩa Stalinít, nhưng từ sau Đại hội
ĐCS Liên Xô lần thứ 20, không còn ai muốn nhắc đến cụm từ “Stalinít“ nữa. Từ
tháng 2 năm 2013, Đảng cộng sản Pháp đã bỏ biểu tượng búa liềm trên thẻ Đảng
tượng trưng cho nền chuyên chính vô sản. Đến nay hầu hết các Đảng Cộng sản Châu
Âu và Đảng cộng sản Nhật đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản Mácxít-Leninít, chuyển
sang Chủ nghĩa cộng sản Châu Âu, có tên gọi là Eurocommunism, gần gụi với Chủ
nghĩa Xã hội dân chủ.
Xem thêm:
- Nguyễn Kiến Giang: Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam (Diễn đàn). - Trần Độ: Thư gửi anh Lữ Phương.- “Chủ nghĩa xét lại” ở Việt Nam DCCH: Bằng chứng mới từ kho tư liệu Đông Đức (NCQT).
Xem thêm:
- Nguyễn Kiến Giang: Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam (Diễn đàn). - Trần Độ: Thư gửi anh Lữ Phương.- “Chủ nghĩa xét lại” ở Việt Nam DCCH: Bằng chứng mới từ kho tư liệu Đông Đức (NCQT).
-----
lịch sử xưa và nay đều cho thấy những kẻ xuyên tạc lịch sử đều bị lịch sử chôn vùi như N.S Khrushop và goocbachop, còn Stalin vĩ nhân của nhân loại mặc dù đã mất cách nay hơn nửa thế kỷ, trải qua bao thế chế xã hội và sự chống đối xuyên tạc bôi đen vẫn không có thế lực nào ngăn nổi sự tỏa sáng của phẩm chất vĩ nhân của ông với mọi thời đại .
Trả lờiXóa