Goorbahcov (phải) và Elsin (trái)
(Và vì sao việc này trở nên
quan trọng trong một thời đại cách mạng như hiện nay)
Leon
Aron, Foreign
Policy
Trần
Ngọc Cư dịch
Kichbu theo buudoan.com`
Mọi cuộc cách mạng đều tạo ra kinh ngạc. Tuy vậy, cuộc
Cách mạng Nga gần đây nhất phải được kể là một trong những kinh ngạc lớn nhất.
Trong những năm trước 1991, gần như không một chuyên gia, học giả, viên chức
chính quyền, hay chính trị gia phương Tây nào thấy trước được sự sụp đổ sắp xảy
ra của Liên Xô, và kéo theo nó một chế độ độc tài độc đảng, một nền kinh tế do
nhà nước làm chủ, và cả sự kiểm soát của Điện Cẩm Linh đối với đế quốc Liên Xô
và Đông Âu. Với một ngoại lệ duy nhất, tất cả những nhà bất đồng chính kiến Xô
viết cũng như chính những nhà cách mạng tương lai — nếu ta xét qua hồi ký của
họ – cũng không tiên đoán được sự kiện này. Khi Mikhail Gorbachev trở
thành tổng bí thư Đảng Cộng sản vào tháng Ba năm 1985, không một nhân vật đồng
thời nào của ông dự kiến một cuộc khủng hoảng có thể dẫn đến cách mạng. Mặc dù
người ta không đồng ý nhau về tầm mức nghiêm trọng của những vấn đề nội tại
trong chế độ Xô Viết, nhưng không ai coi những vấn đề này là đang đe dọa sinh
mệnh của chế độ, chí ít trong tương lai gần.
Vậy, do đâu mà có sự thiển cận đều
khắp lạ lùng đến thế? Việc các chuyên gia phương Tây không tiên liệu được sự
sụp đổ của Liên Xô một phần là do sử quan xét lại (historical revisionism) — tạm
gọi là khuynh hướng bài chủ nghĩa chống cộng (anti-anti-communism) — một khuynh
hướng phóng đại sự ổn định và tính chính danh của chế độ Xô viết. Tuy nhiên,
một số nhân vật khác vốn không được coi là mềm dẻo đối với chế độ cộng sản cũng
không kém kinh ngạc trước sự cáo chung của chế độ này. Một trong những người
thiết kế chiến lược Mỹ trong thời Chiến tranh Lạnh, ông George Kennan, viết
rằng, trong khi nhìn lại toàn bộ “lịch sử các sự vụ quốc tế trong thời hiện
đại”, ông nhận thấy rằng “thật khó nghĩ ra một biến cố nào lạ lùng, đáng kinh
ngạc, và mới thoạt nhìn không thể giải thích nỗi, hơn sự tan biến đột ngột và
toàn bộ…của đại cường mệnh danh kế tục nhau là Đế quốc Nga rồi đến Liên Xô”. Richard
Pipes, có lẽ là sử gia Mỹ hàng đầu về nước Nga và cũng là một cố vấn của Tổng
thống Mỹ Ronald Reagan, cho rằng cuộc cách mạng gần đây của Nga là “bất ngờ”.
Một tuyển tập gồm các bài tiểu luận viết về sự cáo chung của Liên Xô trong một
số báo đặc biệt năm 1993 của tạp chí bảo thủ National Interest (Lợi ích Quốc
gia) có tựa đề là “Cái chết lạ lùng của chủ nghĩa Cộng sản Xô viết”.
Nếu có thể hiểu được dễ dàng hơn,
thì sự thiếu phán đoán mang tính tập thể này có thể đã được an toàn xếp vào một
hồ sơ trí tuệ gồm những điều kỳ lạ và phù phiếm của khoa học xã hội rồi bị lãng
quên. Tuy nhiên, thậm chí ngày nay, với khoảng cách 20 năm, giả thuyết cho rằng
Liên Xô vẫn có thể tiếp tục tồn tại trong tình trạng lúc đó hay bất quá cuối
cùng nó sẽ bắt đầu một cuộc suy tàn kéo dài khá lâu, có vẻ là một kết luận
không kém phần hợp lý.
Thật vậy, vào năm 1985 Liên Xô gần
như vẫn có đủ nguồn lực thiên nhiên và nhân sự của 10 năm về trước. Chắc chắn
là, mức sống tại đây còn thấp hơn tại Đông Âu khá xa, nói chi đến phương Tây.
Tình trạng thiếu hụt hàng hoá, hạn chế lương thực, những hàng người dài trước
các quầy hàng, và nạn nghèo khổ khắc nghiệt diễn ra đều khắp xã hội. Nhưng Liên
Xô đã từng trải qua nhiều đại họa to lớn hơn thế và đã có thể đối phó mà không
hề mất một mảy may quyền kiểm soát của nhà nước đối với xã hội và nền kinh tế,
lại càng không hề từ bỏ quyền lực này.
Không có một thước đo thành tích
kinh tế chủ yếu nào trước năm 1985 cho thấy một thảm họa đang lù lù xốc tới. Từ
năm 1981 đến năm 1985 mức tăng trưởng GDP của Liên Xô, mặc dù có chậm lại so
với thập niên 1960 và thập niên 1970, nhưng cũng đạt được 1,9% một năm. Chính
cùng một mô hình dù suy yếu nhưng không đến nỗi thảm khốc này còn kéo dài cho
đến hết năm 1989. Nạn thiếu hụt ngân sách, một yếu tố kể từ thời Cách mạng Pháp
được coi là tín hiệu quan trọng cho một cuộc khủng hoảng có thể đưa đến cách
mạng, chưa lên tới 2% GDP vào năm 1985. Mặc dù có gia tăng nhanh chóng, nạn
thâm thủng ngân sách vẫn ở dưới mức 9% GDP cho đến hết năm 1989 — một con số mà
hầu hết các nhà kinh tế cho là hoàn toàn có thể xoay trở được (manageable).
Giá dầu lửa rơi cực nhanh, từ 66
đôla một thùng năm 1980 xuống 20 đôla một thùng năm 1986 (trong số 2000 giá cả)
chắc chắn là một đòn nặng nề đánh vào tài chính Xô-viết. Tuy vậy, nếu điều chỉnh
theo nạn lạm phát, thì vào năm 1985 giá dầu lửa trên thị trường thế giới vẫn
cao hơn năm 1972, và chỉ thấp hơn toàn thập niên 1970 một phần ba mà thôi. Nhưng
đồng thời, mức thu nhập của người dân Xô viết gia tăng hơn 2% vào năm 1985, và
sau khi điều chỉnh lạm phát, đồng lương của họ còn tiếp tục gia tăng trong 5
năm liền cho đến hết năm 1990 ở mức độ trung bình trên 7% mỗi năm.
Vâng, tình trạng đình đốn kinh tế
của Liên Xô là hiển nhiên và đáng lo ngại. Nhưng như giáo sư Đại học Wesleyan,
ông Peter Rutland, đã chỉ rõ, “Dẫu sao, những chứng bệnh kinh niên của Liên Xô
không nhất thiết đe dọa sinh mệnh của nước này”. Ngay cả nhà nghiên cứu hàng
đầu về các nguyên nhân kinh tế của cuộc cách mạng này, ông Anders Aslund, cũng
ghi nhận rằng từ năm 1985 đến năm 1987, tình hình “là không mảy may sôi động”.
Từ quan điểm của chính quyền, tình
hình chính trị lúc bấy giờ thậm chí ít đáng lo ngại hơn trước. Sau 20 năm liên
tục đàn áp đối lập chính trị, gần như tất cả những nhà bất đồng chính kiến nổi
tiếng đã bị cầm tù, lưu đày (như trường hợp Andrei Sakharov từ năm 1980), buộc
phải ra sống ở nước ngoài, hay chết trong các trại cải tạo và nhà giam.
Cũng gần như không có bất cứ một
dấu hiệu nào khác báo trước một cuộc khủng hoảng tiền cách mạng (pre-revolutionary
crisis), kể cả một nguyên nhân truyền thống thường được coi là có thể dẫn đến
sự suy sụp của một quốc gia – đó là sức ép từ bên ngoài. Trái lại, thập niên
trước đó được các học giả đánh giá đúng đắn là thời kỳ Liên Xô “đã thực hiện
được tất cả những tham vọng quân sự và ngoại giao quan trọng”, như nhà sử học
và ngoại giao Mỹ, ông Stephen Sestanovich, đã viết. Tất nhiên, lúc bấy giờ Afghanistan
ngày càng cỏ vẻ là một cuộc chiến lâu dài, nhưng đối với một quân lực gồm 5
triệu binh sĩ như của Liên Xô, sự thiệt hại tại đó là không đáng kể. Thật vậy,
mặc dù gánh nặng tài chính khổng lồ do việc duy trì một đế quốc về sau trở
thành một vấn đề chính trong các cuộc tranh luận sau năm 1987, nhưng bản thân
những chi phí cho cuộc chiến Afghanistan không làm cho quốc gia kiệt quệ: Được
ước tính vào khoảng 4 đến 5 tỉ đôla vào năm 1985, đó là một phần không đáng kể
trong tổng sản lượng nội địa (GDP) của Liên Xô.
Hoa Kỳ cũng không phải là một lực
tác động cho cuộc cách mạng. “Học thuyết Reagan” bao gồm nỗ lực chống lại và,
nếu có thể, đảo ngược những bước tiến của Liên Xô trong Thế giới Thứ ba quả có
tạo được sức ép chung quanh đế quốc này, ở những nơi như Afghanistan, Angola,
Nicaragua, và Ethiopia. Tuy nhiên, những khó khăn của Liên Xô ở đó cũng chẳng
có gì nghiêm trọng để trở thành một nguy cơ cho chế độ.
Trong một màn giáo đầu cho một cuộc
chạy đua vũ trang có tiềm năng gây ra nhiều tốn kém cho đối phương, Sáng kiến
Phòng thủ Chiến lược [hay lá chắn nguyên tử] do Reagan đưa ra thực sự có ý nghĩa nghiêm
trọng – nhưng đề xuất này không hề báo hiệu một sự thất bại quân sự cho Liên
Xô, vì Điện Cẩm Linh biết chắc rằng việc triển khai hữu hiệu hệ thống phòng thủ
không gian của Mỹ cũng mất vài thập kỷ nữa mới thực hiện được. Tương tự như
thế, mặc dù cuộc nổi dậy chống cộng sản bất bạo động của công nhân Ba Lan là
một tình hình rất bức xúc cho giới lãnh đạo Xô viết, làm nổi bật sự mong manh
của đế quốc của họ tại châu Âu, nhưng vào năm 1985 Phong trào Đoàn kết
(Soliditary) tỏ ra đã kiệt lực. Liên Xô hình như thích nghi được với việc tung
ra các “đợt bình định” đẩm máu cứ 12 năm một lần – Hungary năm 1956, Tiệp Khắc
năm 1968, và Ba Lan năm 1980 — bất chấp dư luận thế giới.
Nói thế khác, đây là một Liên Xô
đang ở trên đỉnh cao quyền lực và thanh thế toàn cầu của mình, theo quan điểm
của chính nó lẫn quan điểm của thế giới còn lại. Sau này, sử gia Adam Ulam đã
nhận xét “Chúng ta thường quên rằng vào năm 1985, không một chính phủ của một
quốc gia quan trọng nào tỏ ra có quyền lực vững chắc và có đường lối chính sách
rõ ràng như chính quyền Liên bang Sô viết”.
Hẵn nhiên, có nhiều lý do thuộc
về cơ chế — kinh tế, chính trị, xã hội – cho biết tại sao Liên Xô phải sụp đổ như
nó đã sụp đổ; tuy nhiên, những lý do này không thể giải thích đầy đủ biến cố
này diễn ra như thế nào và diễn ra khi nào. Nghĩa là, làm sao trong một thời gian
từ năm 1985 đến năm 1989, trong lúc không gặp phải những tình trạng tồi tệ gay
gắt về kinh tế, chính trị, dân số, và các vấn đề cơ chế khác, mà nhà nước và hệ
thống kinh tế Xô viết bỗng dưng bị một quần chúng đủ đông đảo coi là ô nhục,
thiếu tính chính danh, và hết chịu nỗi để phải sụp đổ?
Gần như hầu hết mọi cuộc cách mạng
hiện đại, cuộc cách mạng Nga gần đây nhất được khởi động bằng một tiến trình tự
do hóa khá do dự “từ trên xuống” – và lý do căn bản của nó vượt quá nhu cầu sửa
sai nền kinh tế hoặc làm cho môi trường quốc tế tốt đẹp hơn. Cái cốt lỏi trong
sáng kiến của Gorbachev là rất lý tưởng, đó là điều không thể chối cãi: Ông
muốn xây dựng một Liên Xô có đạo lý hơn.
Vì mặc dù chiêu bài đưa ra là cải
thiện kinh tế, nhưng rõ ràng là Gorbachev và những người ủng hộ ông trước hết
muốn sửa chữa những sai lầm đạo lý hơn là sai lầm kinh tế. Hầu hết những điều
họ tuyên bố công khai trong những ngày đầu của chương trình tái cơ cấu (perestroika),
bây giờ nhìn lại, có vẻ chỉ là một cách biểu lộ nỗi khổ tâm của họ về sự suy
đồi tinh thần và những hệ quả xói mòn đạo lý của thời đại Xít-ta-lin. Đó là
bước khởi đầu của một sự liều lĩnh đi tìm kiếm những câu trả lời cho các vấn
nạn to lớn mà mọi cuộc cách mạng vĩ đại thường bắt đầu: Thế nào là một cuộc
sống tốt đẹp, hợp với nhân phẩm? Cái gì tạo ra một trật tự kinh tế và xã hội công
chính? Một nhà nước chính danh và đàng hoàng là như thế nào? Quan hệ của một
nhà nước ấy với xã hội dân sự phải như thế nào?
“Một không khí đạo lý mới mẻ đang
thành hình trên đất nước ta”, Gorbachev đã nói như thế trước Ủy ban Trung ương
Đảng trong phiên họp tháng Giêng 1987, nơi ông tuyên bố rằng glasnost (chủ trương
cởi mở) và tự do hóa sẽ làm nền tảng cho perestroika (chủ trương tái cơ cấu) xã
hội Xô-viết của ông. “Việc thẩm định lại các giá trị và xét lại chúng một cách
sáng tạo đang được tiến thành”. Sau này, khi nhắc lại cảm tưởng của ông rằng
“chúng ta không thể tiếp tục như thế thêm nữa, và chúng ta phải triệt để thay
đổi lối sống, dứt khoát với những sai trái trong quá khứ”, ông gọi đó là “lập
trường đạo lý” của ông.
Trong một bài phỏng vấn vào năm
1989, “người cha đỡ đầu của glasnost”, ông Aleksandr Yakovlev, nhớ lại rằng, vào
lúc trở về Liên Xô sau 10 năm làm đại sứ tại Canada, ông cảm thấy đã đến lúc
người dân phải tuyên bố, “Đủ lắm rồi! Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế
này thêm nữa. Mọi việc phải được thực hiện theo một đường lối mới. Chúng ta phải
xét lại tư duy, đường lối, quan điểm về quá khứ và tương lai của chúng ta…Một
sự đồng thuận ngấm ngầm: giản dị là, chúng ta không thể tiếp tục sống như chúng
ta đã sống trước đây — một cách nhục nhã, ngoài mức chịu đựng”.
Theo ý kiến của vị thủ tướng của
Gorbachev, ông Nikolai Ryzhkov, “tình trạng đạo lý [nrastennoe] của xã hội vào
năm 1985 là nét đặc trưng “hãi hùng nhất”:
[Chúng ta] ăn cắp từ chính bản thân
của chúng ta, nhận và đưa hối lộ, láo khoét trong các báo cáo, trên báo chí,
láo khoét từ các diễn đàn cấp cao, đắm mình trong láo khoét, rồi trao huân chương
cho nhau. Và tất cả những điều này đã diễn ra — từ trên xuống dưới và từ dưới
lên trên.
Một thành viên khác trong nhóm thân
cận sơ khởi và rất ít ỏi của Gorbachev gồm những nhân vật chủ trương tự do, Bộ
trưởng Ngoại giao Eduard Shevardnadze, cũng khổ tâm không kém vì tình trạng
thiếu luật lệ và tham nhũng đều khắp. Ông nhớ lại đã nói với Gorbachev vào mùa
đông 1984-1985: “Mọi thứ đã thối nát. Phải thay đổi thôi”.
Trở lại thập niên 1950, một vị tiền
nhiệm của Gorbachev, ông Nikita Khrushchev, đã lần đầu thấy rõ sự mong manh của
cái nền tảng của ngôi nhà mà Stalin đã xây lên trên sự khủng bố và dối trá.
Nhưng thế hệ thứ năm này của giới lãnh đạo Xô-viết cảm thấy tin tưởng hơn về
sức bật của chế độ. Gorbachev và các đồng chí của ông tỏ ra tin tưởng rằng những
điều đúng cũng là những điều có thể quản lý được dễ dàng về mặt chính trị (politically
manageable). Gorbachev tuyên bố rằng chủ trương dân chủ hóa “không phải là một
khẩu hiệu nhưng là tinh túy của perestroika”. Nhiều năm về sau, ông đã trả lời
phỏng vấn như sau:
Mô hình Xô-viết không những bị đánh
bại trên bình diện kinh tế và xã hội; nó bị đánh bại ngay trên bình diện văn
hóa. Xã hội chúng ta, nhân dân chúng ta, những người có học vấn nhất, những người
có trí thức nhất, đã bác bỏ mô hình ấy trên bình diện văn hóa vì nó không tôn
trọng con người, nó đàn áp con người về mặt tinh thần lẫn chính trị.
Sự thể những cải tổ đã đưa đến cuộc
cách mạng năm 1989 phần lớn cũng phát xuất từ một nguyên nhân “lý tưởng” khác:
bản thân Gorbachev rất ghét bạo động và, vì thế, ông cương quyết không sử dụng
việc áp bức quần chúng (mass coercion) khi tầm mức của các biến chuyển bắt đầu
vượt quá ý định ban đầu của ông. Triển khai các lực lượng đàn áp kiểu Xít-ta-lin
cho dù để “duy trì chế độ” cũng sẽ là một hành động phản lại niềm tin tưởng son
sắt nhất của ông. Một chứng nhân nhớ lại Gorbachev đã nói vào cuối thập niên
1980, “Chúng ta được dạy là chúng ta phải đấm bàn”, rồi ông nắm tay lại, minh
họa cú đấm. Viên tổng bí thư phát biểu tiếp: “Nói chung, việc này có thể thực
hiện. Nhưng chúng tôi không thích làm như vậy”.
Vai trò của tư duy và lý tưởng trong
việc mang lại cuộc cách mạng Nga xuất hiện rõ nét hơn khi chúng ta nhìn vào
những diễn biến bên ngoài Điện Cẩm Linh. Một ký giả Xô-viết hàng đầu và về sau
trở thành một tiếng nói nhiệt tình đối với chủ trương glasnost, ông Aleksandr
Bovin, đã viết vào năm 1988 rằng những lý tưởng của perestroika đã “chín muồi”
giữa lúc nhân dân ngày càng “bức xúc” trước nạn tham nhũng, ăn cắp của công
trắng trợn, trước những láo khoét, và những cản trở chặn đứng việc làm của
người lương thiện. Những dự kiến “về một cuộc đổi thay có thực chất đang bàng
bạc trong không gian”, một chứng nhân khác nhớ lại, và những người
mang kỳ vọng này đã tạo nên một khối cử tri rõ nét (appreciable constituency)
đang đòi hỏi những cải tổ triệt để. Thật vậy, những kỳ vọng đã đón chào
Gorbachev khi ông lên cầm cầm quyền là rất mãnh liệt và ngày càng gia tăng đến
độ chúng có thể định hình cho chính sách thực sự của ông. Đột nhiên, chính các
tư duy đã trở nên một yếu tố có cấu trúc, có thực thể trong cuộc cách mạng đang
diễn ra.
Theo cách nói của Yakovlev, cái
uy tín của ý thức hệ chính thống, vốn ràng rịt toàn bộ hệ thống chính trị và kinh
tế của chế độ Xô-viết “như những niền thép”, đang rã rệu nhanh chóng. Nhận thức
mới đã giúp người dân thay đổi thái độ đối với chế độ và tạo ra “một chuyển
biến trong hệ thống các giá trị”. Dần dần, tính chính đáng của các sắp xếp
chính trị [cơ chế chính trị] bắt đầu bị chất vấn. Trong một trường hợp điển hình
của “định lý Thomas” bất hủ mà [nhà xã hội học] Robert K. Merton xây dựng thành
lý thuyết – “Nếu người ta tin rằng một tình thế là có thực, thì tình thế đó sẽ
trở thành hiện thực trong hậu quả của nó”– sự suy đồi thực sự của nền kinh tế
Xô-viết chỉ mang lại hậu quả nghiêm trọng sau khi và bởi vì có một chuyển biến
cơ bản trong cách người dân cảm nhận và đánh giá thành tích của chế độ.
Viết cho một tạp chí Xô-viết năm
1987, một độc giả Nga gọi những gì ông chứng kiến chung quanh ông là một “sự
dứt khoát triệt để trong ý thức của người dân”. Chúng ta biết độc giả này nhận
xét đúng vì cuộc cách mạng của Nga là cuộc cách mạng vĩ đại đầu tiên mà tiến
trình của nó được vẽ thành biểu đồ trong các cuộc thăm dò dư luận quần chúng
ngay từ đầu. Vào cuối năm 1989, cuộc thăm dò dư luận tiêu biểu đầu tiên đã cho
thấy dân chúng nhiệt liệt ủng hộ các cuộc tuyển cử có tính cạnh tranh và việc
hợp pháp hóa các đảng phái ngoài Đảng Cộng sản Xô-viết – sau bốn thế hệ dưới
chế độ độc tài độc đảng và trong lúc các đảng phái độc lập vẫn còn bất hợp pháp.
Giữa thập niên 1990, hơn nửa số người được thăm dò trong một vùng nước Nga đồng
ý rằng “một nền kinh tế lành mạnh” có khả năng phát triển nhanh hơn “nếu chính
phủ cho phép tư nhân làm ăn theo ý họ muốn”. Sáu tháng sau, một cuộc thăm dò
trên toàn nước Nga cho thấy 56% hậu thuẫn một cuộc chuyển đổi nhanh chóng hay
tuần tự sang một nền kinh tế thị trường. Thêm một năm sau thì số người ủng hộ
kinh tế thị trường tăng đến tỉ lệ 64%.
Những người đã gieo vào xã hội “chuyển
biến ngoạn mục về ý thức” không ai khác hơn là những kẻ đã từng châm ngòi cho
các cuộc cách mạng tiêu biểu khác của thời hiện đại: đó là, các nhà văn, nhà
báo, và giới nghệ sĩ. Như Alexis de Tocqueville nhận xét, những con người này
“giúp tạo ra một ý thức chung về sự bất mãn như vậy, một công luận được kiên
định như vậy, rồi hai yếu tố này … lại tạo ra những đòi hỏi hữu hiệu cho các chuyển
biến có tính cách mạng”. Đột nhiên, “toàn bộ việc giáo dục” trên cả nước trở
thành “công tác của những người cầm bút”.
Tại Nga Xô cũng vậy. Những hàng
người dài trước các sạp báo – đôi khi các đám đông phải xếp hàng quanh một
khu phố từ lúc 6 giờ sáng, vì lượng báo ra hàng ngày thường bán sạch chỉ trong vòng
2 tiếng đồng hồ — và số người đặt mua ngày càng đông các báo nổi tiếng có chủ
trương tự do đã chứng minh sức công phá của những nhà bình luận nổi tiếng thuộc
khuynh hướng glasnost, hay xin mượn cụm từ của Samuel Johnson, “những bậc thầy
truyền giảng chân lý” (teachers of truth): kinh tế gia Mikolai Shmelyov; các
triết gia chính trị như Igor Klyamkin và Alexandr Tsypko; các tiểu luận gia như
Vasily Selyunin, Yuri Chernichenko, Igor Vinogradov, and Ales Adamovich; các ký
giả Yegor Yakovlev, Len Karpinsky, Fedor Burlatsky, và chí ít trên hai chục nhà
văn nữa.
Đối với họ, việc phục sinh đạo lý
là thiết yếu. Điều này có nghĩa là không những chỉ rà soát lại các hệ thống chính
trị và kinh tế Xô-viết, không những chỉ lật ngược các qui phạm xã hội (social
norms), mà còn là một cuộc cách mạng trên bình diện cá nhân: một sự thay đổi
trong nhân cách của người dân Nga. Như Mikhail Antonov tuyên bố trong một tiểu
luận rất sáng tạo năm 1987, với tiêu đề “Vậy thì việc gì đang đến với chúng
ta?” trên tạp chí Oktyabr, phải “cứu” lấy nhân dân – không phải để họ thoát
khỏi các mối nguy từ bên ngoài, nhưng “chủ yếu để họ thoát khỏi chính mình,
thoát khỏi các tiến trình phi luân đang giết chết những phẩm chất cao quí nhất
của con người”. Cứu nhân dân bằng cách nào? Bằng cách làm cho tiến trình dân
chủ hóa còn sơ sinh trở thành con đường định mệnh, không thể đảo ngược – không
phải bằng “một đợt băng tan” ngắn ngủi của Khrushchev, nhưng bằng một cuộc thay
đổi khí hậu. Và việc gì sẽ đảm bảo cho tình hình không thể đảo ngược này? Trên
hết, đó là sự xuất hiện của con người tự do, một con người “không bị lây nhiễm
trước các sự kiện lặp đi lặp lại của chế độ nô lệ tinh thần”. Tuần báo Ogoniok,
một tạp chí quan trọng thuộc chủ trương glasnost, đã viết vào tháng Hai năm
1989 rằng chỉ có “con người không có khả năng làm chỉ điểm cho công an, không
có khả năng phản bội và láo khoét, bất luận nhân danh ai hay tổ chức nào, mới
có thể cứu chúng ta khỏi sự xuất hiện trở lại của một nhà nước độc tài”.
Lối lý luận vòng vo này — để cứu
nhân dân, người ta phải cứu lấy perestroika, nhưng người ta chỉ cứu được perestroika
nếu có thể thay đổi đựợc con người “từ bên trong” — gần như không hề
làm cho ai khó chịu. Những người phát biểu tư duy về những vấn đề này gần như
đã cho rằng việc cứu nước bằng chủ trương perestroika và việc kéo người dân
khỏi bãi sình lầy tinh thần là hai nỗ lực đan kết chặt chẽ, có lẽ không thể
tách rời nhau, và họ dừng lại ở đó. Vấn đề quan trọng là phải đưa nhân dân trở
về “địa vị công dân” từ vị trí “nông nô” và “nô lệ”. “Đủ lắm rồi!” là một lời
tuyên bố của Boris Vasiliev, tác giả của một tiểu thuyết bán rất chạy trong
giai đoạn này về Thế chiến II, một cuốn truyện được đóng thành phim và được khán
giả yêu chuộng không kém. Ông nói: “Đủ lắm rồi những láo khoét, đủ lắm rồi tinh
thần nô lệ, đủ lắm rồi sự hèn nhác. Sau cùng, chúng ta phải nhớ rằng tất cả
chúng ta đều là công dân. Những công dân tự hào của một đất nước tự hào!”
Nhìn kỹ vào những nguyên nhân của
Cách mạng Pháp, de Tocqueville có nhận xét nổi tiếng rằng, các chế độ bị cách
mạng lật đổ thường thường ít áp bức dân chúng hơn các chế độ trước đó. Tại sao?
Vì, theo suy đoán của de Tocquevile, mặc dù người dân “có thể ít khổ sở hơn”,
nhưng họ lại “cảm thấy bị xúc phạm nhiều hơn”.
Thông thường, Tocqueville có khuynh
hướng bàn về những điều tối quan trọng. Từ Những Người cha lập quốc trong Cách
mạng Mỹ (the Founding Fathers), đến nhóm Jacobins của Cách mạng Pháp và nhóm
Bôn-sê-vich trong Cách mạng Nga, những nhà cách mạng này đã chiến đấu chủ yếu
dưới một bóng cờ: phát huy nhân phẩm. Chính vì nỗ lực tìm kiếm nhân phẩm xuyên
qua quyền tự do và quyền công dân mà khuynh hướng lật đổ chính quyền trong tinh
thần glasnost vẫn còn tồn tại – và sẽ còn tồn tại. Cũng như trước đây những
trang báo của tờ Ogoniok và tờ Moskovskie Novosti nằm hãnh diện bên cạnh hình
ảnh Boris Yeltsin trên chiếc xe tăng như là các biểu tượng của cuộc mạng Nga
gần đây, ngày nay những trang mạng bằng tiếng Á-rập cũng hiên ngang làm biểu
tượng cách mạng bên cạnh những hình ảnh các đám đông nổi dậy tại Quảng trường
Tahrir của Cairo, tại Khu Casbah của Tunis [Tunisia], trên các đường phố của
Benghazi [Lybia], và các thành phố sôi sục bạo động của Syria. Gác các vấn đề
ngôn ngữ và văn hóa chính trị qua một bên, các thông điệp và cảm thức mà những
cuộc cách mạng này gợi lên là rất giống nhau.
Mohamed Bouazizi, một thanh niên
bán hoa trái, mà cuộc tự thiêu của anh đã châm ngòi cho cuộc nổi dậy tại Tunisia
khởi đầu cho Mùa Xuân Á Rập 2011, đã tự tử “không phải vì anh ta thất nghiệp
nhưng vì khi anh đến nói chuyện với [chính quyền địa phương] có trách nhiệm về
vấn đề của anh thì bị đánh đập – cái chết này là để tố cáo chính phủ”, một
người biểu tình tại Tunis đã nói với một nhà báo Mỹ như thế. Tại Benghazi, cuộc
nổi dậy của người Lybia bắt đầu với việc các đám đông hô vang khẩu hiệu, “Nhân
dân muốn chấm dứt tham nhũng!”. Tại Ai Cập, các đám đông đã “biểu lộ tinh thần
tự cường của một dân tộc bị đàn áp quá lâu đã đến lúc không còn biết sợ hãi
nữa, không muốn để cho giới lãnh đạo của mình tiếp tục tướt đoạt tự do và chà
đạp nhân phẩm”, cây viết chuyên đề của tờ New York Times, ông Thomas Friedman,
đã tường thuật từ Cairo vào tháng Hai năm nay. [Nếu có mặt ở hiện trường], ông
cũng có thể đã tường thuật như thế từ Mát-xkơ-va năm 1991.
“Nhâm phẩm có ưu tiên hơn bánh mì!”
là khẩu hiệu của cách mạng Tuy-ni-di. Kinh tế Tuy-ni-di đã gia tăng trong khoảng
2 và 8 phần trăm một năm trong hai thập kỷ liền trước cuộc nổi dậy. Với giá dầu
lửa ở mức cao,Libya cũng
đang phát triển kinh tế khá mạnh ngay trước khi có cuộc nổi dậy. Cả hai trường hợp
này nhắc nhở chúng ta rằng trong thế giới hiện nay, tiến bộ về mặt kinh tế không
thể thay thế cho niềm tự hào và tự trọng trong tư cách công dân. Nếu chúng ta
không nhớ kỹ điều này, chúng ta sẽ tiếp tục kinh ngạc — trước “các cuộc cách
mạng màu” trong thế giới hậu-Xô viết, trước Mùa Xuân Á Rập, và không chóng thì
chầy trước một biến động dân chủ tất yếu tại Trung Quốc – như chúng ta từng
kinh ngạc trước cuộc cách mạng tại Nga Xô. “Thượng Đế đã ban cho chúng ta một ý
thức mãnh liệt về nhân phẩm khiến chúng ta không thể chấp nhận sự khước từ các
quyền tự do và các quyền bất khả xâm phạm, bất chấp cả quyền lợi có thực hay
giả tưởng nào mà các chế độ độc tài "ổn định’ có thể mang lại”, tổng thống
của nước Kyrgyzstan, ông Roza Otunbayeva, đã viết vào tháng Ba năm nay. “Thật
là kỳ diệu khi người dân, nam, phụ, lão, ấu, thuộc nhiều tôn giáo và khuynh
hướng chính trị khác nhau, qui tụ trong các quảng trường thành phố và tuyên bố
‘chúng tôi đã bưa lắm rồi’ (enough is enough)”.
Hẳn nhiên, động lực đạo lý tuyệt
vời, sự tìm kiếm chân và thiện, chỉ là một điều kiện cần nhưng không đủ để tái
tạo một đất nước thành công. Nhân dân có thể đủ sức lật đổ chế độ cũ (ancien
régime), nhưng không thể cùng một lúc khắc phục được nền văn hóa chính trị độc
tài đã ăn sâu trên cả nước. Gốc rễ của các định chế dân chủ do những cuộc cách
mạng có động cơ đạo lý có lẽ tỏ ra còn quá nông cạn, không thể giữ vững một nền
dân chủ hữu hiệu trong một xã hội thiếu truyền thống quí giá là cơ sở hạ tầng
biết tự tổ chức và biết tự trị. Đây là điều có thể gây trở ngại to lớn cho việc
thực hiện những hứa hẹn của Mùa Xuân Á-rập – đã thấy ở Nga. Sự phục sinh đạo lý
ở Nga đã bị trở ngại do sự phân hóa và ngờ vực mà 70 năm độc tài toàn trị sản
sinh ra. Mặc dù Gorbachev và Yeltsin đã tháo dỡ một đế quốc, nhưng cái di sản
của não trạng đế quốc trong hằng triệu người Nga đã khiến họ dễ dàng chấp nhận
chủ nghĩa tân độc tài của Putin (neo-authoritarian Putinism), với các chủ đề
tuyên truyền to lớn như “sự bao vây của các thế lực thù nghịch” và “Nước Nga
đứng dậy từ bước ngã quị”. Hơn thế nữa, bi kịch quốc gia to lớn (và tội lỗi
quốc gia) mà chủ nghĩa Xit-ta-lin gây ra chưa bao giờ được tìm hiểu đầy đủ và
chưa bao giờ được thống hối, vì vậy đã làm hỏng toàn bộ nỗ lực phục hồi đạo lý,
đúng như các người rao giảng glasnost từng mạnh mẽ cảnh báo.
Đó là lý do nước Nga ngày nay một
lần nữa đang từng bước tiến tới một thời điểm perestroika khác. Mặc dù những
đợt cải tổ thị trường trong thập niên 1990 và giá dầu lửa tăng cao hiện nay đã
kết hợp lại để tạo nên sự phồn vinh chưa từng có trong lịch sử cho hằng triệu
người Nga, nhưng sự tham nhũng trắng trợn của tầng lớp cai trị ở chóp bu, chế
độ kiểm duyệt kiểu mới, và việc công khai khinh thường dư luận đã tạo ra tình
trạng bất mãn và yếm thế, một tình trạng đang bắt đầu lên tới (nếu không muốn
nói đã thực sự vượt qua) mức độ của đầu thập niên 1980.
Người ta chỉ cần đến Mát-xcơ-va
vài ngày để tiếp xúc với giới trí thức hiện nay hay, tốt hơn nữa, liếc qua các trang
nhật ký mạng (blogs) trên LiveJournal (Zhivoy Zhurnal), diễn đàn Internet nổi
tiếng nhất của Nga, hay qua các website của những nhóm trí thức đối lập và độc
lập hàng đầu, là thấy được rằng câu châm ngôn của thập niên 1980 – “Chúng ta
không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa!” đang trở thành tín điều một lần
nữa. Lệnh truyền đạo lý của tinh thần tự do đang tái khẳng định chính nó, và
hiện tượng này không chỉ diễn ra hạn hẹp trong các giới trí thức và những nhà
hoạt động dân chủ. Tháng Hai năm nay, Viện Phát triển Đương đại (the Institute
of Contemporary Development), một viện nghiên cứu chính sách tự do do Tổng
thống Dmitry Medvedev làm chủ tịch, đã xuất bản một tài liệu có vẻ như là một
chương trình vận động tranh cử tổng thống Nga năm 2012:
Trong quá khứ nước Nga cần tự do
để sống [tốt đẹp hơn]; hiện nay nước Nga cần tự do để sống còn…Thách thức của
thời đại chúng ta là làm sao để rà soát lại hệ thống giá trị, hun đúc một ý thức
mới. Chúng ta không thể xây dựng một đất nước hiện đại với tư duy cũ…Đầu tư tốt
đẹp nhất [mà nhà nước có thể dành cho con người] là Tự do và Nền Pháp trị (the
Rule of Law). Và tôn trọng Phẩm giá của con người.
Chính cuộc tìm kiếm có tính cách
trí thức và đạo lý này, một nỗ lực khôi phục niềm tự hào và tự trọng, bắt đầu
bằng một cuộc duyệt xét đạo lý không nương nễ đối với quá khứ và hiện tại của
đất nước, chỉ vỏn vẹn trong vài năm đã khoét hổng nhà nước Sô-viết đồ sộ, tước
sạch tính chính danh của nó, và biến nó thành một chiếc vỏ bị thiêu rụi (burned-out
shell) để rồi tan rã vào tháng Tám 1991. Câu chuyện về hành trình đạo lý và trí
thức này là một câu chuyện hoàn toàn chiếm vị trí trung tâm về cuộc cách mạng
vĩ đại cuối cùng của thế kỷ 20.
-----
Trước nay, bọn chống Cộng trong và ngoài nước luôn xuyên tạc, bóp méo nguyên nhân Liên Xô tan rã như là cuộc cách mạng của nhân dân Liên Xô(?).
Trả lờiXóaSự thực có phải như vậy không?
Tháng 3-1991,trong cuộc trưng cầu ý dân, hơn 70% nhân dân toàn Liên Xô đã bỏ phiếu tán thành duy trì Liên Xô.
Vậy ai đã làm Liên Xô tan rã?
Gorbachev đã bày ra trò ký hiệp ước Liên bang giữa 15 nước Cộng hòa vào ngày 20/8/1991. Hãy tưởng tượng xem, nước Mỹ có 50 bang tập hợp thành nước Mỹ với Hiến pháp Liên bang, thế mà lại bày trò ký “Hiệp ước liên minh 50 bang”, vậy Hiến pháp Liên bang còn là cái gì?
Thế là xảy ra cuộc đảo chính 19/8/1991, mở đường cho lãnh đạo 3 nước Cộng hòa Nga, Ucraina, Kazacstan ký Hiệp ước riêng rẽ thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập SNG và thúc đẩy cho lãnh đạo 12 nước Cộng hòa còn lại lần lượt tuyên bố độc lập, làm tan rã Liên Xô.
Liên Xô tan rã là do những kẻ hoạt đầu chính trị, cầm quyền các nước Cộng hòa chứ hoàn toàn không phải do nhân dân Liên Xô.
Trên các đường phố cũng có các cuộc biểu tình, giật phá các tượng đài...nhưng cũng chỉ là vài chục ngàn người chứ không phải là 300 triệu nhân dân Liên Xô.
đảng Cộng sản Liên Xô đã bị Gorbachev lừa gạt, thay thế bằng những kẻ cơ hội, những lực lượng cán bộ, đảng viên chân chính đã bị gạt bỏ hết, Đảng CS Liên Xô mất hết sức chiến đấu, không còn lực lượng phát động và lãnh đạo hàng trăm triệu nhân dân đứng lên đập tan bọn phản loạn, bảo vệ Nhà nước Liên Xô.
Bất kỳ cuộc cách mạng nào, nhân dân cũng phải được giáo dục, giác ngộ, và có tổ chức, lãnh đạo, nếu không, nhân dân chỉ đứng nhìn bọn phản loạn lôi kéo một bộ phận nhỏ "nhân dân" làm loạn đường phố cho bọn hoạt đầu chính trị hoành hành, mà không thể làm gì chống lại.