Семь причин поражения США во Вьетнаме
Nicolai Grishenko
Kichbu theo: topwar.ru
Ngày 15 tháng Một năm 1973, quân đội Hoa Kỳ và các
đồng minh chấm dứt các hoạt động quân sự ở
Việt Nam.
Lòng
yêu hòa bình của quân đội Mỹ được giải
thích bởi điều rằng sau cuộc đàm phán
kéo dài bốn năm ở Paris, các bên tham
gia cuộc xung đột vũ trang đã đạt được một thỏa thuận nhất định. Một thời gian sau đó, ngày 27 tháng Một, hiệp định hòa bình đã được ký kết. Theo các thỏa thuận đạt được, quân đội
Mỹ, từ năm 1965 đã có khoảng 58.000
người bị thiệt mạng, rời bỏ miền Nam Việt Nam. Cho đến nay, các nhà sử học, chính
trị gia và tướng lĩnh không thể
trả lời rõ ràng cho câu hỏi: "Người Mỹ đã thua trận như thế nào, nếu họ chưa từng thua một trận nào cả?".
Chúng tôi
giới thiệu một số ý kiến của các chuyên gia về vấn đề này.
1. Điệu nhảy (discotek)
địa ngục trong những cánh rừng nhiệt đới. Binh lính và sĩ quan Mỹ đã gọi
cuộc chiến tranh Việt Nam như vậy. Dù có những ưu thế áp đảo về vũ khí và lực lượng (số lượng binh sĩ
Hoa Kỳ tại Việt
Nam vào năm 1968 là 540 nghìn người), họ dã không chiến thắng được quân du kích. Ngay cả những vụ đánh
bom rãi thảm, khi không quân Mỹ thả xuống Việt Nam 6,7 triệu tấn bom đã không thể "đẩy người Việt Nam
về thời kỳ đồ đá". Trong khi đó tổn thất của quân đội Mỹ và các đồng minh đã không ngường tăng lên. Trong những năm chiến tranh người Mỹ có gần 58 nghìn người thiệt mạng, 2300 người mất tích và hơn 150 nghìn bị thương trong những cánh rừng nhiệt đới. Đồng thời trong danh sách thiệt hại chính thức không bao gồm những người được đánh thuê trong quân đội Mỹ để có được quốc tịch Hoa Kỳ. Mặc dù có
những hoạt
động quân sự riêng lẽ thành công, tổng thống Richard Nixon hiểu được rằng họ sẽ không thể giành được chiến thắng cuối cùng.
2 . Sự mất tinh
thần của của quân đội Mỹ. Đào ngũ trong thời gian chiến tranh Việt Nam đã trở thanh hiện tượng khá phổ biến. Chỉ cần nhớ lại rằng võ
sĩ quyền Anh hạng nặng nổi tiếng của Mỹ Cassius Clay ở
đỉnh cao của sự nghiệp của mình, đã cải sang đạo Hồi và
đổi tên thành Muhammad Ali, để không phải phục vụ trong quân
đội Mỹ. Vì hành động này, ông đã bị tước tất
cả các danh hiệu và bị đình chỉ tham gia cuộc thi đấu trong hơn ba năm. Sau chiến tranh, tổng thống Gerald Ford vào năm 1974 đã ân xá cho tất cả những
người trốn nhập ngũ và đào ngũ. Có đến hơn 27 nghìn rưỡi
người như vậy. Sau đó, vào năm 1977, người đứng đầu tiếp theo của Nhà Trắng, Jimmy
Carter ân xá cho những người trốn chạy khỏi Mỹ để tránh gọi
nhập vụ.
3 . " Chúng tôi biết
rằng kho dự trữ bom và tên lửa của các vị
đang cạn kiệt trước cả tinh thần
chiến đấu của binh sĩ của chúng tôi", - Bay Kao nguyên là nhà Việt cộng học đã nói với nhà sử
học Mỹ và là cựu binh chiến tranh ở Đông
Dương David
Hackforth. Ông cũng bổ sung thêm : "Vâng, chúng
tôi yếu hơn về mặt vật chất, nhưng tinh thần chiến đấu và ý chí của chúng tôi mạnh
hơn các vị. Cuộc chiến tranh của chúng tôi là chính nghĩa, còn chiến tranh của các vị - không. Lính thủy đánh bộ của vị biết điều này, cũng như chính
nhân dân Mỹ. Nhà sử học Philip Davidson chia sẻ quan điểm này và đã viết : " Trong suốt cuộc chiến, Hợp chủng quốc ít suy nghĩ về hậu quả chính trị, kinh tế và tâm
lý của các hoạt động quân sự của họ. Không ai chú trọng đến những cái chết của dân thường, những phá hủy không cần thiết , hơn thế, cả
điều này lẫn điều kia đã tạo ra hiệu quả chính trị tiêu cực".
4 . Chiến tranh nhân dân. Đa số người Việt Nam đứng về phía quân du kích. Họ cung cấp thực phẩm, tin tức tình báo, tuyển dụng
người và tiếp tay cho quân du kích. Trong các tác phẩm của mình David Hackforth trích
lời của Mao
Trạch Đông nói rằng "nhân dân đối với du kích nước như
cá đối với nước: tách nước - và cá sẽ chết ". " Yếu tố gắn kết những người cộng sản ngay từ đầu tiên nhất là chiến lược của chiến tranh giải phóng cách mạng. Nếu không có chiến lược
này, chiến thắng của những người cộng sản sẽ là không thể. Cần xem
xét chiến
tranh Việt Nam
qua lăng kính của chiến lược chiến tranh nhân dân, rằng đó không phải là vấn
đề sinh lực và trang bị kỹ thuật, rằng những việc như vậy không liên quan
đến vấn đề này, " – một nhà sử học khác, người Mỹ Philip Davidson, đã viết.
5 . Chuyên nghiệp chống nghiệp dư. Binh lính và sĩ quan của quân
đội Việt Nam được chuẩn bị cho chiến
tranh trong những cánh rừng nhiệt đới tốt hơn người
Mỹ rất nhiều, bởi vì họ chiến đấu vì giải phóng Đông Dương kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai.
Thoạt đầu kẻ thù của họ là Nhật Bản, sau đó là Pháp, tiếp theo là Hoa Kỳ. " Là tháng Mai
Hiep, tôi cũng đã gặp đại tá Li Lam và Đang Viet Mai. Họ là chỉ huy tiểu đoàn gần 15 năm, - David Hackforth nhớ lại. Một chỉ huy
tiểu đoàn hoặc lữ đoàn Mỹ trung bình phục vụ ở Việt Nam với thời gian chỉ sáu
tháng - Có thể
so sánh Lam và Mai với những huấn luyện viên của các đội bóng đá thi đấu mỗi mùa trong trận chung
kết dành giải siêu cúp, trong khi các chỉ huy Mỹ như giáo viên toán còn hơi sữa được đặt
vào vị trí những huấn luyện viên chuyên nghiệp của chúng ta thiệt mạng bệnh hám
danh vị. Để trở thành tướng lĩnh, "những cầu thủ" của chúng ta đã
mạo hiểm tính mạng của họ, khi chỉ huy các tiểu đoàn tại Việt Nam trong sáu tháng, và Mỹ đã bị thất trận".
6 . Các cuộc biểu tình chống chiến tranh và tâm trạng của xã hội
Mỹ. Mỹ bị rung động bởi các cuộc biểu tình chống đội của hàng
nghìn người, chống chiến tranh Việt Nam. Phong trào mới, hippies, nổi lên từ thanh niên phản đối cuộc chiến này. Đỉnh cao của phong trào là cái
gọi " Lê đường đến Pentagon" khi vào tháng Mười năm 1967 tại Washington tập
trung đến 100 nghìn người trẻ tuổi phản đối chống chiến tranh, và các cuộc
biểu tình chống đối trong thời gian đại hội của đảng Dân chủ Hoa Kỳ ở Chicago vào tháng Tám năm 1968. Chỉ cần nhớ rằng John Lennon , phản đối chống chiến tranh, đã viết ca khúc “Hãy cho hòa bình một cơ hội (" Give Peace a Chance "). Trong số những người lính nghiện
ngập ma túy,
tự tử, đào ngũ đã lan rộng. "Hội chứng Việt Nam ám ảnh các cựu
binh Mỹ, vì thế hàng nghìn cựu binh và sĩ quan đã tự vẫn. Trong hoàn cảnh như vậy, tiếp tục chiến tranh thật
là vô nghĩa.
7 . Giúp đỡ của Trung Quốc và Liên Xô. Hơn nữa, nếu các đồng chí từ
Trung Quốc chủ yếu viện trợ kinh tế và sinh lực, thì Liên Xô cung cấp cho Việt Nam vũ khí hoàn thiện nhất của họ. Theo tính toán thô thiển, sự giúp đỡ của Liên Xô ước tính là 8-15 tỷ đô la, còn chi phí tài chính của
Hoa Kỳ, từ các số liệu hiện nay, vượt quá một nghìn tỷ
USD. Ngoài vũ khí, Liên Xô cử đến Việt Nam các chuyên gia quân sự. Từ tháng Bảy năm 1965 đến hết năm
1974, khoảng 6.500 sĩ quan và tướng
lĩnh, cũng như hơn 4.500 hạ sĩ và binh sĩ của lực lượng vũ trang của Liên Xô đã tham gia chiến đấu. Ngoài ra, các trường và các học viện quân sự của Liên Xô bắt đầu đào tạo quân nhân Việt Nam – con số đó là hơn 10 nghìn người.
-----
Sự xấp xếp bàn cờ chiến lược của các siêu cường. Sự thất bại nếu có trên bình diện chiến thuật là chuyện nhỏ
Trả lờiXóa