Китай и территориальные конфликты
Dmitri Mosyakov
Trong những thập kỷ gần đây, Trung Quốc đã nhiều lần thể
hiện yêu sách chủ quyền lãnh thổ đối với các quốc gia láng giềng - Liên Xô, Nhật Bản, Pakistan, Việt Nam, Ấn Độ, vv…
Ngày 15 tháng Một năm 1974 - một ngày đặc biệt trong lịch sử của cuộc xung đột
trên biển Hoa Nam
(Biển Đông-Việt Nam – Kichbu). Đúng bốn mươi năm trước, vào
lúc bình minh “những ngư dân” Trung Quốc
đã đổ bộ lên các đảo Robert, Mani, Duncan và nhóm đảo Drumont Croissant của quần đảo Hoàng Sa. Vào buổi sáng trong trẻo và yên lặng này họ bơi thuyền đến không
phải để tránh bão, hoặc tiến hành sửa chữa cần thiết. Mục đích của họ là dựng lên trên những hòn đảo nhỏ bé và khô cằn của Việt Nam (lúc bấy giờ nằm dưới sự kiểm soát của Nam
Việt Nam) lá cờ của CHND Trung Hoa và chính điều đó
đã gây nên tình hình xung đột.
Họ đã hành động theo kịch bản đã được
phê chuẩn ngày từ năm 1959 – lúc bấy giờ
cũng "những ngư dân " Trung
Quốc đổ bộ lên
các đảo này, và thậm chí cắm cờ Trung Quốc, tuy nhiên, ngay những binh lính biên phòng Nam Việt
Nam đầu tiên xuất hiện, tất cả họ đã buộc nhanh chóng rút lui. Nhưng lần này, tình
hình bắt đầu phát triển theo kịch bản hoàn toàn khác. Khi chính quyền Nam Việt Nam phát hiện ra rằng "những ngư dân " đã đến đây bắt đầu xây dựng các công trình kinh tế và
dựng những lá cờ của CHND Trung Hoa trên các đảo Robert, Mani, Duncan và Drumont để thể hiện chủ quyền của họ đối với những hòn đảo này, đã cố gắng để kháng cự bằng cách điều đến những đơn vị lính biên phòng. Kết quả là, vào ngày
16-17 tháng Một, "những ngư dân" đã bị lực lượng bảo vệ biển Nam Việt Nam không sử dụng vũ khí trục xuất ra khỏi các đảo Robert, Mani và xé lá cờ của CHND Trung Hoa.
Nhưng các sự kiện tiếp theo diễn biến hoàn toàn khác so với
trước, ngày 17 tháng Một những
tàu chiến của Trung Quốc cùng lính thủy quân lục chiến tập trung trước đó tại
Hoàng Sa đã tiến vào khu vực xung đột. Ngày 19 tháng Một họ bắt đầu nã pháo vào các đảo Robert, Mani và Pattl, và vào ngày 20 tháng các đơn vị đổ bộ của Trung Quốc đã tấn công lên các
đảo này và
đảo Duncan. Một ngày trước đó ngay cả đảo Drumont, nơi binh sĩ Nam
Việt Nam
bị mai phục, cũng đã bị chiếm. Các đơn vị phòng
thủ của các đảo nhanh chóng bị đè bẹp, vì sự tương quan lực lượng
trong cuộc xung đột rõ ràng là không ngang
sức với lợi
thế lớn của phía Trung Quốc. Hải quân Trung Quốc đã thống trị biển và sau nhiều cuộc đụng độ đã đánh bật các tàu tuần tiểu của Nam Việt Nam ra khỏi các đảo. Đồng thời theo một số nguồn tin, cả hai phía đã mất mỗi bên một tàu .
Những nỗ lực của chế độ miền Nam Việt Nam tìm
sự ủng hộ của các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Mỹ đã thất bại. Tàu chiến của Mỹ dửng dưng quan sát cảnh đại bại của binh sĩ của đồng
minh mới đây của họ, chỉ hỗ trợ sơ tán
một số đơn vị đồn trú trên đảo. Vì vậy, chỉ sau vài
ngày, hoạt động quân sự
trên các đảo đã
kết thúc và đến tối ngày 20
tháng Một năm 1974 Pekin đã thiết lập quyền kiểm soát quần đảo
Hoàng Sa.
Thời
đó, vào
tháng Một năm 1974, sự kiện này nằm không lâu trong sự
quan tâm của cộng đồng thế giới. Điều đó cũng
dễ hiểu:
người Mỹ không muốn thu hút sự quan tâm
của Pekin đến những hành động hiếu chiến, bởi vì
về lý thuyết họ có nghĩa vụ hỗ trợ đồng minh Nam Việt Nam. Nhưng vào năm 1971, ngoại trưởng Henry
Kissinger đã đến thăm Pekin, và vào năm 1972, Trung Quốc và
Mỹ đã ký thông cáo chung Thượng Hải, mở ra kỷ nguyên của sự hợp tác giữa hai
nước để đối đầu với
"mối đe dọa của Liên Xô”. Người Mỹ nhìn thấy ở
Trung Quốc là đồng minh trong "chiến tranh lạnh" chống lại Liên Xô, còn đối với Pekin, quan hệ với Mỹ không chỉ mở ra khả năng
thoát khỏi sự cô lập quốc tế và một loạt các lợi ích khác, mà còn tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giải quyết cuộc xung đột tại quần đảo Hoàng Sa bằng biện
pháp quân sự .
Chính quyền Trung Quốc
đã hợp lý cho
rằng triển vọng đối đầu chung chống Liên Xô đối với Washington
quan trọng hơn nhiều so với số phận của
một vài đảo hoang vu và nhỏ bé biển Hoa Nam, và vì lý do này người Mỹ "nhắm mắt" trước hành
động quân sự của Pekin. Và điều này đã xảy
ra như thế. Và nếu phân tích toàn bộ tiến trình của
các sự kiện, thì có thể nói rằng Trung Quốc đã hành động với sự im lặng đồng lõa của Hoa Kỳ.
Bởi vậy, ngay trên báo chí của Mỹ, có nghĩa, trên các phương tiện truyền thông toàn cầu
đã cố bình luận những sự kiện này làm sao nhanh nhất và lặng lẽ nhất.
Ngày nay hoàn toàn rõ ràng rằng các cuộc đụng
độ quân sự này hoàn toàn có quyền được gọi là một cuộc chiến
tranh chớp nhoáng, có tầm quan trọng hoàn toàn không
phải thậm chí là địa phương, và thậm chí không phải là khu vực. Trong một ý nghĩa nhất định, chúng là một trong những chứng cứ đầu tiên sự quay trở lại của Trung
Quốc với chính sách ngoại giao tích cực nhằm để gắn tất cả những vùng lãnh thổ
mà chúng dường như bị mất trong thời kỳ của cái gọi là sự suy yếu về mặt lịch
sử của Trung Quốc trong thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX vào đất nước Thiên tử. Ngoài ra, tấn công và chiếm Hoàng Sa đã trở thành xung đột quân sự đầu tiên trong toàn bộ lịch sử các tranh chấp các đảo ở biển Hoa Nam. Các chuyến bay của máy bay ném bom và hỏa lực của tàu
chiến cho thấy rằng những mâu thuẫn xung quanh các đảo
của biển Hoa Nam đã chuyển từ trạng thái tiềm ẩn và phần nhiều trực quan, có
thể nói là xung đột trên bản đồ, thành “cuộc xung đột nóng” thật sự.
Ngày
nay, khi phân
tích những sự kiện này, và thật thú vị để theo
dõi xem Trung
Quốc chuẩn bị kỹ lưỡng cho một cuộc xâm chiếm các đảo như thế nào. Chắc là, vào năm 1972, được sự đồng ý ngầm Mỹ để chiếm các đảo này, Pekin đã không vội vàng tiến hành hành động
và đã tìm cơ hội thuận lợi để bắt đầu xâm chiếm. Và cơ hội đã được tìm thấy, khi chính phủ Nam Việt Nam vào tháng Chín năm 1973, đã thông qua quyết định đưa quần đảo Trường Sa và
quần đảo Hoàng Sa vào thành phần của tỉnh Phươctui. Trung Quốc đã không ngay lập tức nêu lên quan điểm của họ về quyết định này của Nam
Việt Nam. Việc chuẩn bị hoạt động quân sự tiếp tục gần bốn tháng, và tất cả các thời gian
này, Bộ Ngoại giao Trung Quốc vẫn im hơi
lặng tiếng.
Chỉ khi tất cả đã sẵn sàng cho các hoạt động quân sự chớp nhoáng,
Pekin lại nhớ về quyết định tháng Chín của Nam Việt Nam, và Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ra thông báo
chính thức phản đối “sự xâm phạm lãnh thổ của họ”. Tiếp theo, như chúng ta
biết, các sự kiện diễn tiến hết sức nhanh chóng.
Chiến
dịch chiếm
Hoàng Sa Pekin trước đây và ngay bây giờ
gọi đó không phải là cái gì khác mà là sự phục hồi các
đường biên
giới lịch sử của Trung Quốc, giải phóng những
vùng lãnh
thổ lịch trước đây thuộc về Trung Quốc . Tuy nhiên,
các tham vọng lịch sử của Pekin ít nhất thật đáng
ngờ, ngược
lại , có rất nhiều tài liệu nói rằng trên
thực tế vào
thế kỷ XIX các đảo này thuộc về lãnh thổ
của Việt
Nam. Được biết, người sáng lập triều đình
nhà Nguyễn, vua Gia Long và
những người kế vị của ông đã thể hiện sự quan tâm tích cực đối với cả Hoàng Sa và cả Trường Sa. Theo chỉ lệnh của hoàng đế Gia Long, ví dụ, trong những
năm1815-1816s đã phái đội khảo
sát đặc biệt để nghiên cứu quần đảo Hoàng Sa và các tuyến đường biển để ở đó . Vào những năm 1834-1836s. Vua Việt Nam Minh
Mạng đã giao nhiệm vụ các các quan chức của mình tiến hành làm bản đồ của mỗi đảo trong quần đảo Hoàng Sa và chuẩn bị báo cáo tổng quan về vùng biển xung quanh của quần đảo, xây dựng các
đền thờ và
đặt chỉ hiệu trên các hòn đảo và đánh dấu chúng thuộc về Việt Nam.
Năm 1847, vua Thiệu Trị đã thông qua báo cáo của Bộ Công trình công cộng, trong
đó chỉ ra, đặc biệt: " ... bởi vì khu vực Hoàng Sa
nằm trong
vùng lãnh hải của chúng ta, chúng ta, theo các quy tắc chung, phải phái tàu chiến đến đó
để xác định
các tuyến đường biển". Trong thời gian cai trị của thực dân Pháp ở Việt
Nam, những hòn đảo này là một phần của Liên bang Đông Dương, bao gồm Việt Nam, Lào và Campuchia.
Vì vậy, nói về các quyền lịch sử Hoàng Sa của Trung Quốc là rất phức
tạp. Điều quan trọng nhất - Pekin
ngay trong
những năm 70s , và cả bây giờ hiểu rõ ý
nghĩa chiến lược quan trọng của các hòn đảo và để
kiểm soát
quân sự trên biển Hoa Nam, cả về bình diện khai thác nguồn cá, và cả trong việc nghiên cứu các khu vực dầu và khí đốt ngoài khơi. Ngoài
ra, chiếm được Hoàng Sa sẽ làm thay đổi tình hình địa
chính trị trong toàn bộ khu vực Đông Nam Á. Một tuyến đường trực chỉ hơn nữa về phía nam tới các đảo Trường Sa đã được mở ra cho Trung
Quốc. Sau
Hoàng Sa, chính chúng đã trở thành mục
tiêu mới của những nỗ lực quân sự và ngoại giao của Trung Quốc. Ngay vào tháng Bảy năm 1977, bộ trưởng ngoại giao Huang Hua của
CHND Trung Hoa tại cuộc đàm phán đã nói với đại diện của Philippines rằng " lãnh thổ Trung Quốc trải dài về
phía nam tới bãi đá cạn James gần Sarawak
(Malaysia) ... các vị có thể tiến hành thăm dò
khoáng sản tùy muốn. Tuy nhiên, khi thời gian đến,
chúng tôi lấy lại những hòn đảo này. Lúc bấy giờ tiến hành đàm phán sẽ không có sự cần thiết nào, bởi vì các quần đảo này đã từ lâu thuộc về Trung Quốc ... " .
Những lời nói này của bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc
trong một ý nghĩa nào đó như tiên tri. Vào nửa sau của những năm 80s, tàu chiến của
Trung Quốc
xuất hiện ở phía nam của quần đảo Trường Sa , và thủy quân lục chiến Trung Quốc
đã chiếm một số cứ điểm
quan trọng trong khu vực này của thế giới.
Vào năm
1995, họ tiếp tục hành động xa hơn nữa và
đặt dưới sự
kiểm soát của mình rạn san hô Mischif, nằm cận kề đảo Palawan của Philippines . Hoạt động này, như
nhiều nỗ lực tiếp theo của CHND Trung Hoa
để mở rộng
sự hiện diện của họ trên quần đảo Trường Sa, nhiều lần đã đặt Trung Quốc và Philippines trên bờ vực của một
cuộc chiến tranh thực sự.
Hôm nay ,
bốn mươi năm sau khi các sự kiện được mô tả , có thể đầy đủ tự tin nói rằng cuộc chiến tranh chớp nhoáng
ít được biết đến trên các hòn đảo xa xôi , vào
thời đó đã
không bị quốc tế lên án rộng rãi, thậm
chí lên án nghiêm khắc, trên thực tế, đã trở thành khúc dạo đầu cho một kỷ nguyên
mới trong lịch sử, khi cuộc xung đột trên
biển Hoa Nam biến từ song phương thành đa phương với sự kết nối của Philippines, và sau này thành toàn cầu, khi Hợp
chúng quốc bắt
đầu tích cực can thiệp hơn vào cuộc xung
đột này. Tất
cả quá trình chính trị như dòng thác này, bắt đầu sau khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, sẽ là một xác nhận của một điều mà ai cũng biết
rằng đôi khi ngay cả một hòn đá nhỏ có thể gây ra một vụ đá lở toàn diện.
* Bản dịch chưa được hiệu đính. Các bạn đọc tham khảo.
Kichbu.
-----