Чему нас учит Вьетнам
Kichbu posted on
08.01.2013
Đối với Mỹ, chiến tranh Việt Nam là những chấn thương lớn nhất và các sự kiện bi thảm của nửa thế kỷ qua.
Mỹ
đã tham gia vào cuộc chiến tranh với một cảm giác tự tin kiêu ngạo sau mười lăm
năm của thành công sáng tạo trong chính sách đối ngoại. Và thoát ra khỏi cuộc
chiến tranh bị phân mảnh và phân chia
không như sau những thời kỳ của Nội chiến. Kết cục, Quốc hội hai năm sau khi
rút quân đã chấm dứt viện trợ cho Việt Nam, và những người Mỹ cuối cùng rời
khỏi Sài Gòn bằng trực thăng, mắc kẹt trên mái nhà của đại sứ quán của chúng ta.
Trong khi còn chưa xuất hiện những đánh giá giai đoạn đó, trong mức độ đấy đủ của những yếu tố tương ứng với kênh cảm xúc và bi kịch đó, số lượng các nhân chứng của các sự kiện Việt Nam mỗi ngày giảm bớt, và những người còn sống, như trước đây vẫn bị shock vì những gì đã trải qua và có nhìn nhận khác nhau với quá khứ.
Các
nhà lãnh đạo trẻ thấy khó hiểu những bất đồng của ông cha mình, và họ trong các
hoạt động hiện tại của mình đã va phải những vấn đề đối mặt với sự cần thiết
phải lựa chọn.
Cuốn
sách “Những bài học của thảm họa: McGeorge Bundy và con đường dẫn đến chiến
tranh ở Việt Nam' ("Lessons
in Disaster: McGeorge Bundy and the Path to War in Vietnam”) không có khả năng lấp đầy
khoảng trống này. Tuy nhiên trong đó chỉ ra những sự kiện của năm năm (1961-1966)
một cách rõ ràng, khi những người Mỹ đến để phòng thủ Nam Việt Nam.
Trong cuốn sách đưa ra những hành động của một trong những nhà hoạt động nhà nước nổi bật nhất của thời
kỳ đó, và tác giả, dường như, muốn hiểu và
đành chịu với với thảm lịch này của Mỹ.
Người
xuất sắc và có khả năng thể hiện những suy nghĩ của mình, McGeorge Bundy là người hồ hởi và thận trọng, thuộc đội ngũ “những người đàn
ông thuộc các đoàn hệ của “bramin Boston" (bác sĩ, nhà thơ và nhà viết
tiểu luận Oliver Wendell Holmes đã sử dụng định ngữ này để mô tả các tầng lớp
quý tộc trí thức Mỹ và tầng lớp thượng lưu của xã hội). Ông đã đạt được công
danh khoa học xuất chúng, trở thành chủ nhiệm khoa ở độ tuổi 34. Tôi học ở
Haward, khi ông đã giữ chức vụ ấy ở đó.
Vào
năm 1961 John F. Kennedy đã đề cử Bundy, đảng viên đảng Cộng hòa, làm cố vấn về
an ninh quốc gia. Bundy đã biến chức vụ này thành điều như nó hôm nay. Bởi dòng
báo cáo về những vấn đề an ninh quốc gia từ các cục khác nhau nhất đã trở nên
phong phú, văn phòng của Bundy đã biến thành trung tâm thu thập, xử lý và
chuyển tải thông tin. Từ đó Hội đồng an ninh quốc gia chuẩn bị các phương án
giải quyết khác nhau, mà trên cơ sở của chúng tổng thống thực hiện sự chọn lựa
của mình.
Năm
năm Bundy thực hiện các nghĩa vụ của mình với tính tổ chức cao và tháo vát đặc
trưng của mình. Vào thời gian xảy ra khủng khoảng Berlin, khủng khoảng tên lửa ở Caribie, đã
ký thỏa thuận về chấm dứt thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Ông nới lỏng các thủ đoạn
của mình khi các cơ hội cho thành công trong chiến tranh Việt Nam bắt đầu bị giảm sút – chính
Bundy là người đấu tranh công khai của nó, và trong mức độ nào đó là người tổ chức.
Bundy trở thành
đích ngắm của những cuộc tấn công của nhà báo David Halberstam trong cuốn sách
của mình “Xuất sắc và rực rỡ nhất (“The Best and the Brightest”). Trong cuốn sách này Halberstam
đã sử dụng Bundy để minh họa cho luận điểm rằng chính bơ sữa đã làm cho Hoa Kỳ lạc
lối ở Việt Nam.
Cuốn sách này mang lại giọng điệu cho các đánh giá tiếp theo của tiến trình và
lối thoát ra khỏi Việt Nam.
Bundy với phẩm chất và danh dự của mình đã chịu đựng được những xúc phạm, không
bao giờ phản ứng trực tiếp chỉ trích, và bản thân, có thể cũng đồng ý với một
số cáo buộc. Vào năm 1966 ông từ chức và không bao giờ giữ các chức vụ nhà nước.
Vào cuối đời ông
cùng một nhà khoa học khác bắt đầu thu thập tài liệu để dựng lại những sự kiện
dẫn Hoa Kỳ đi từ những hy vọng đến những thất vọng. Nhưng Bundy qua đời, và
chưa kịp bắt tay viết bản thảo. Một nhà
khoa học cùng làm việc với ông, tên gọi là Gordon M. Goldstein, đã biến những
nỗ lực chung và một số đoạn trong những
bài viết của Bundy thành cuốn sách “Những bài học của thảm họa”. Đây là kết quả
lao động của riêng ông, phản ánh những quan điểm của chính nhà nghiên cứu. Gia
đình của Bundy không được phép công bố cuốn sách. Đây là cuốn sách tương đối kỳ
quặc, nhưng đồng thời rất hấp dẫn.
Như thường nói,
quý ông không thể trở thành anh hùng đối với công bộc của mình, và cuốn sách
này cho phép áp dụng chân lý sơ đẳng trong quan hệ với các nhà khoa học. Tác
phẩm “Những bài học của thảm họa” thù địch một cách không thương tiếc đối với
đối tượng mô tả của mình – không những chỉ đối với nhân cách của Bundy mà người
ta kể với sự kính trọng, mà còn đối với chính sách của ông.
Cuốn sách mang lại
cơ hội nhìn lại những thời đã qua. Nó là chứng minh cho điều rằng Mỹ không có
khả năng vượt qua những cuộc tranh cãi đã xé tan nó thành từng mảnh năm mươi
năm trước.
Bundy đã khuất
phục được di sản chính sách hậu chiến của Mỹ trong quan hệ với Châu Âu và Liên
Xô một cách hoàn toàn thành công. Chính sách hậu chiến này đã cải tạo Châu Âu,
và đồng thời dẫn đến thắng lợi trong “chiến tranh lạnh”. Nhưng ông đã thất bại
khi áp dụng các nguyên tắc của chính sách này ở Đông-Nam Châu Á.
Khó khăn nằm ở chỗ
rằng Đông-Nam Châu Á là một vấn đề chiến lược kiểu khác. Ở Châu Âu các định chế
nhà nước đã trải qua nổi đau khổ của
Chiến tranh thế giới thứ II một cách bình yên. Nhưng mối hiểm nguy mà các nước
Châu Âu đối mặt thuộc vào những hy vọng và thất vọng kinh tế của họ, và mối đe
dọa quân sự Liên Xô với binh lính của nó dọc theo biên giới phía Tây chồng lên
điều này. Kế hoạch Marshall
đã giúp thủ tiêu mối nguy hiểm đầu tiên. Còn thứ hai – NATO.
Nhưng ở Nam Việt Nam
tình hình hoàn toàn khác. Đường phân chia ở Việt Nam về kỹ thuật là khu phi
quân sự, nhưng Hà Nội không bao giờ thừa nhận nó với tư cách là biên giới liên
quốc gia và muốn phá vỡ các định chế nhà nước, và tiến hành chiến tranh du
kích.
Trong cuộc chiến
tranh không có ranh giới mặt trận này, việc kiềm chế quân sự có ý nghĩa khác. Ở
Châu Âu vấn đề chủ yếu là đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ; ở Đông-Nam Á – tính chính
danh của chính quyền. Bộ máy chính quyền mới của Kennedy, dường như, hiểu được
sự khác biệt này, tuy nhiên trên thực tế lại không giải quyết được vấn đề nó
phải hành động bằng cách nào trong bối cảnh như vậy.
Để giải quyết
những vấn đề này nó xuất phát từ quan điểm chung. Cũng như những người tiền
nhiệm của cả hai đảng, bộ máy chính quyền của Kennedy xuất phát từ chỗ rằng
kiềm chế phải là một bộ phận không tách rời của chính sách Mỹ, và bộ máy chính
quyền Mỹ xem hiệu ứng domino từ sự sụp đổ có thể của Nam Việt Nam là quy luật
tự nhiên tất yếu.
Nó thậm chí tăng
thêm sự tinh tế triết học nào đó cho chiến lược của mình. Việt Nam
bây giờ được xem không phải là một trong các mặt trận, mà là mặt trận trung tâm
trong “chiến tranh lạnh” toàn cầu. Bởi vì NATO đã thực hiện thành công nhiệm vụ
ngăn chặn xâm lược phi hạt nhân, và như vậy bằng cách đó phải tiêu diệt cả
phong trào du kích ở Việt Nam.
Hôm nay khi từ
thời gian đó đã gần bốn mươi năm trôi qua, dễ dàng phản bác những luận điểm
này. Chủ nghĩa cộng sản hóa ra con lâu mới là một khối thống nhất; những quân
cờ domino sau sự sụp đổ của Nam Việt Nam đã không đổ ra (có lẽ, mười năm nổ lực
căng thẳng tất cả đã giúp đỡ ngăn chặn quá trình này), còn vấn đề chiến tranh
du kích chỉ sâu sắc thêm và không tìm được cách giải quyết của mình.
Goldstein đã tương
đối công bằng khẳng định rằng Bundy đáng ra cần phải lường trước những khả năng
như vậy. Nhưng ở đây cần nhớ rằng các quốc gia và các quan chức sống và hy vọng
vào lối tư duy truyền thống, nhưng không trái với nó. Rơi vào cái bẫy của những
quan điểm phổ quát và những linh cảm của riêng mình, Bundy đã tập trung tất cả
những nỗ lực để giải quyết các cuộc
khủng hoảng bằng những phương pháp mà tất cả mọi người biết rõ. Bộ máy chính
quyền đã sa vào vũng lầy ra những quyết
định rời rạc và không thống nhất quan điểm chung và tác động đến sự lựa chọn
chiến lược của Kennedy.
Đọc cuốn sách này,
bạn sẽ ngạc nhiên vì phong cách giao tiếp hội thoại trong quá trình này khi
Bundy mò mẫm tìm lối thoát. Chẳng hạn, vào tháng Mười một năm 1961 Bundy đã
viết cho tổng thống: “Hôm kia ông hỏi tôi ở bể chứa nước là tôi nghĩ gì. Còn
tôi nghĩ về điều thế này. Bây giờ chúng ta cần thỏa thuận để đưa khoảng một sư
đoàn đến Việt Nam
khi điều đó cần thiết để tác chiến ở đó”.
Goldstein không
viết gì về những tài liệu trình bày các phương án hành động lựa chọn, về tiết
lộ ý nghĩa của cụm từ “khoảng một sư đoàn”, về kết quả quân sự đòi hỏi của
quyết định như vậy.
Goldstein không
nghi ngờ rằng Kennedy chống việc đưa quân đến Đông-Nam Á. Điều này ở mức độ lớn
nhất đã trở thành kết quả của sự phản đối bên trong của ông, hơn là những đánh
giá chiến lược và suy luận. Trên thực tế, ở cấp chính thức Kennedy đã hành động
không nhất quán và phân thân, lo nghĩ về cứu Nam Việt Nam như một bộ phận cấu thành đảm
bảo an ninh quốc gia, và đồng thời cảm thấy kinh tởm để đạt được mục đích này
bằng sử dụng binh lính Mỹ.
Vào năm 1963 đã
may mán gác lại quyết định này. Nhưng nó trở nên không tránh khỏi vào năm 1965
khi Lyndon B. Johnson trở thành tổng thống, còn Việt Nam nằm trên bờ vực thất
bại. Xảy ra thế này rằng Johnson đã buộc phải hành động trong những điều kiện khẩn cấp, và những điều kiện này bị chi phối
bởi quyết định mà nó được thông qua trong những tuần cuối cùng của Kennedy trên
cương vị tổng thống.
Vào những ngày
nghỉ khi Kennedy và Bundy không ở trong thành phố, phó ngoại trưởng cùng với
một nhân viê từ Hội đồng an ninh quốc gia đã chế ra một chỉ thị cho đại sứ Mỹ ở
Sài Gòn và nó được sử dụng như ngòi nổ để thực hiện đảo chính quân sự. Vì một
loạt âm mưu đã sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm và anh trai của ông. Hà Nội
nhìn thấy trong tình trạng bát náo chi khương và hỗn lạo một cơ hội tốt để đưa
quân thường trực vào Nam Việt Nam.
Ba tuần sau
Kennedy bị giết. Quyết định đưa quân vào Việt nam được Johnson phê chuẩn.
Goldstein đã theo dõi xem các cuộc tranh luận về vấn đề này diễn ra như thế
nào, mà trong quá trình đó các cố vấn hàng đầu – Dean Rusk, Robert McNamara,
Bundy – và cũng như Ủy ban liên các tổng tham mưu trưởng đã tích cực ủng họ ý
tưởng tăng cường một tập đoàn quân.
Goldstei khẳng
định rằng Kennedy dù cho đã đồng ý với học thuyết domino, nhưng lại sẵn sàng
cam chịu các hậu quả của nó, trong số đó, với sự tăng cường các vị trí của
những người cộng sản ở Đông-Nam Á – chỉ còn thiếu việc gửi đến đó những lực
lượng viễn chinh lớn. Tuy nhiên chúng ta không biết phản ứng của ông ấy sẽ thế
nào khi ông ấy đã đồng ý với ý kiến của các cố vấn hàng đầu của mình về chính
sách đối ngoại và các vấn đề an ninh.
Khi Mỹ bắt đầu chiến tranh, Mỹ cần làm sáng tỏ cho
mình chiến tháng có ý nghĩa gì trong cuộc chiến tranh này đối với nó, và nó
muốn đạt được thắng lợi như thế nào. Ngoài ra – Mỹ có ý định kết thúc sự đối
đầu quân sự như thế nào và với sự hỗ trợ của những biện pháp ngoại giao như thế
nào. Liên quan đến Việt Nam,
thì Mỹ đã đưa quân đến đó xuất phát từ những quan điểm chung về uy tín và trong
cấp hiệu vì sự giải quyết mà nội dung của nó không xác định được.
Khái niệm uy tín
thể hiện trong phát ngôn ấn tượng của Bundy mà Goldstein trích dẫn: đối với uy
tín của Mỹ sau khi gửi đến Việt Nam
100000 người tốt nhất là thất trận hơn là không kháng cự nào chống lại Hà Nội.
Còn thêm một trở
ngại nữa được Mỹ tạo ra cho chính bản thân mình là sự không mong muốn xem Đông
Dương như chiến trường chiến lược thống nhất. Eisenhower đã chắc chắn đúng khi
nêu vấn đề bảo vệ Lào là bộ phận cấu thành phòng thủ của Việt Nam. Nhưng Bundy đã chống lại quan điểm
này. Ông đã dẫn cho Kennedy những luận cứ được Goldstein trích như sau: “Sau
năm 1954 Lào không bao giờ thật sự là của chúng ta. Còn Nam Việt Nam
của chúng ta, và muốn trở thành như vậy”. Sự khác biệt này đã tạo ra hoàn cảnh
bế tắc bất thường, mà nửa triệu người Mỹ
chiến đấu để đạt mục đích thực tế không đạt được: chính đối thủ đã có những căn
cứ ở Campuchia, và những con đường cung cấp đi qua Lào.
Và liên quan đến
vấn đề giải quyết, thì Bundy khẳng định như sau: khi những mưu toan của Hà Nội
đặt sự thống trị của mình đối với Nam Việt nam bị thất bại, thông qua các kênh
ngoại giao cần đưa ra sự thỏa hiệp mơ hồ nào đó. Về thực chất, đó là chiến lược
tìm kiếm của tình hình không lối thoát, chứ không phải đạt được chiến thắng.
Nhưng nó mâu thuẫn
nguyên tắc tuyên bố rằng nếu quân du kích không thất bại, thì sẽ thắng. Những
nỗ lực cần thiết để đạt được thỏa hiệp, lúc bấy giờ không thê rphaan biệt với
những điều kiện cần để đảm bảo chiến thắng. Và bộ máy chính quyền, nơi tôi làm
việc, đã buộc phải lĩnh hội điều này trên cơ sở kinh nghiệm cay đắng của riêng
mình.
Người chỉ trích
không thể có tham vọng đánh giá tổng thể những nổ lực của hẳn một thé hệ trong
bài phê phán ngắn gọn đối với cuốn sách. Ở đây cần đưa ra một số nhận xét.
Khi yêu cầu tổng
thống suy nghĩ về gây chiến, ông, trước
hết, cần nhận được bản phân tích tình hình chiến lược toàn cầu để sự dụng cho
mình, làm cơ sở để xây dựng khuyến nghị.
Nhiệm vụ chính
trong chiến tranh – chiến thắng. Và ngõ cụt – đó là biện pháp cuối cùng, nhưng
nó hoàn toàn không là mục tiêu chiến lược.
Xác định chiến
thắng sẽ như thế này: đó là kết quả có thể đạt được trong thời gian chấp nhận
được đói với dư luận xã hội Mỹ.
Ngoài ra, tổng
thống cần có cơ chế hành động ngoại giao chấp nhận được để sử dụng.
Cần xem ngoại giao
và chiến lược như thể thống nhất toàn
vẹn, nhưng không như các gia đoạn theo thứ tự của chính sách.
Ngoại giao và
chiến lược cần có phạm vi quyền lực được vạch ra rõ ràng.
Bộ máy chính quyền
và những người chỉ trích nó có trách nhiệm vụ tiến hành trao đổi một cách thận
trọng, xuất phát từ nhận thức rằng sự thống nhất xã hội chúng ta mang lại niềm
hy vọng cho toàn thế giới.
Có thể, Bundy cần
rút ra những kết luận như vậy sớm hơn? Để thực hiện điều này, ông cần loại bỏ
những quan điểm của hẵn một thế hệ mà chúng giành được sự công nhận chung 15
năm trước, trong thời kỳ các cuộc tranh cãi giữa Truman và MacArthur. Chúng nằm
ở chỗ rằng cần sử dụng sức mạnh với sự gia tăng tối thiểu; rằng chiến lược và
ngoại giao đó là những lĩnh vực riêng lẻ của hoạt động, và sử dụng cúng cần
riêng lẻ và theo thứ tự; rằng các nguyên tắc của Mỹ được áp dụng không phân
biệt trên toàn thê sgiowis, đảm bảo thành công vô điều kiện.
Những nguyên tắc
này đã được hiện thực hóa ở Việt Nam vào đầu những năn 60 một cách tốt nhất, và
hoàn toàn không phải bởi những đại diện tồi nhất cua rthees hệ đó. Và nếu các
nhà hoạt động nhà nước thiếu cái nhìn viễn cảnh, thì những người chỉ trích họ
thiếu sự đồng cảm.
Trong suốt chiều
dài của toàn bộ lịch sử bất kỳ vấn đề nào Mà Mỹ thừa nhận, đều được thể hiện –
cần phải sử dụng những nguồn lực và ý tưởng cần thiết. Việt Nam đối với Mỹ
rất khó nhai.
Isteblishment trí
thức, đau buồn cho tổng thống bị sát hại mà họ đã đánh đồng bản thân với ông,
và phân vân vì tình hình không lối toát mà các học thuyết của ông mang lại, đã
giải thích những nỗi khổ đau của mình bằng việc Mỹ đã không có kinh nghiệm và thất
bại đạo đức của các nhà lãnh đạo của Mỹ.
Vì nguyên nhân này
các cuộc tranh luận toàn quốc đã biến từ
các cuộc tranh cãi về việc đạt được điều
đã vạch ra thành cuộc thập tự chinh nào đó, mà ở đó đối đầu có mục đích đưa ra
những cáo buộc và các ý kiến mang tính răn dạy. Trong ý nghĩa này Bundy đã trở
thành không chỉ nguồn gốc, mà còn là nạn nhân của những thế lực được tự do khi
Mỹ buộc phải làm lịch sử của mình thích ứng với thế giới đang biến đổi.
*
Henry Kissinger là
cố vấn an ninh quốc gia trong chính quyền của tổng thống Richard Nixon và ngoại
trưởng Hoa Kỳ trong bộ máy chính quyền Gerald Ford.
Bản dịch chưa được
biên tập. Các bạn đọc tham khảo.-Kichbu...:)
Xem thêm:
-----
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét