Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

Saigon - thủ đô của Nam Việt Nam


Сайгон - столица Южного Вьетнама


Nguồn: visualhistory

Kichbu posted on 01.05.2013



Vào năm 1954 Việt Nam chia thành Bắc và Nam thành phố Sài Gòn trở thành thủ đô của Nam Việt Nam. Trước khi xuất hiện trên đường phố những chiếc xe tăng T-62 với những ngôi sao đỏ-xanh da trời của Việt Cộng là 20 năm bão táp…



Năm 1967 г. Chiếc xe của Pháp (Citroen Traction-Awan), dường như, bị những cái gì đó hạng nặng cán qua:


Bức hình khác:



Người Pháp gọi Sài Gòn là "Paris của Pháp". Nhà thờ Notr Dam de Saigon" năm 1967:



Thậm chí vào lúc đỉnh điểm của Chiến tranh Việt Nam kinh tế thành phố rất sống động. Trên đường phố chất ních xe hơi:



Đối với tôi hoàn toàn bí ẩn rằng tất cả những chiếc xe đã biến đi đâu mất sau chiến thắng của Việt Cộng. Vào năm 2006 tôi không  nhìn thấy chiếc xe cũ nào ở đấy và điều này chỉ có thể giải thích bằng một hoạt động đặc biệt biệt nào.

Dĩ nhiên, đa số người dân thành phố vẫn sử dụng moto:





 
Bây giờ 99% hoạt động buôn bán ở đó sử dụng xe máy. Vào năm 2006 ở đó tôi nhìn thấy rất ít xe hơi (tất cả xe hơi hoàn toàn mới), khác với Hà Nội, nơi chúng HẦU NHƯ không có, ngoài taxi.


Đầu những năm 1970, tắc xe là hiện tượng bình thường ở đó:
 




Taxi tiêu biểu ở Sài Gòn đầu những năm 70s cũng lặng lẽ biến mất:




Sài Gòn năm 1968:



Năm 1972, ba năm trước khi Sài Gòn sụp đổ:



Quảng cáo đồng hồ năm 1972:



Không phải toàn bộ thành phố nom sung túc như thế. Đây cũng là Sài Gòn, 1976:





Toàn cảnh Sài Gòn năm 1972:





Về sự sụp đổ Sài Gòn tôi sẽ có post riêng (Xem tại đây)

Sài Gòn hôm nay (chính thức Hồ Chí Minh) đang trải qua sự bùng nổ kinh tế mới, thành phố thay đổi trong thấy, giàu lên. Hà Nội sẽ không bao giờ đuổi kịp nó như Pekin không bao giờ đuổi kịp Thượng Hải.

-----
--> Read more..

Giết người bằng heparin kiểu Trung Quốc


 Một quả táo Trung Quốc, việc làm cho bác sỹ ung thư Mỹ cả đời

Diệp Thanh

Nguồn: nguoiduatin.vn


Kichbu posted 01.052013


Cuốn sách Death by China, tức 'Chết dưới tay Trung Quốc', cung cấp một sự thật ghê rợn về đạo đức suy đồi của một lớp doanh nhân Trung Quốc, chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá và giết người.


Tin liên quan


·         Thực phẩm Trung Quốc - con đường dẫn đến địa ngục


·         Một quả táo Trung Quốc, việc làm cho bác sỹ ung thư Mỹ cả đời


Đọc nhiều nhất


Việt Nam sắp là nước không có rừng?


Phá rừng săn 'con cường dương'


Việc họ sẵn sàng giết người vì lợi nhuận, theo giáo sư Lưu Hải Đồng, viết trong Tạp chí Quản lý và Tổ chức là 'do sự đổ vỡ các nguyên tắc Khổng giáo trong môi trường không có đạo đức và luân thường đạo lý hiện nay trong xã hội Trung Quốc'.

Bây giờ, nếu bạn nghĩ rằng sự cố melamine là xưa rồi, thì không đâu. Cho đến tận bây giờ, các sản phẩm nhiễm độc melamine vẫn ngày càng nhiều vì nó thực sự đem lại lợi ích quá lớn khi được dùng làm chất phụ gia, cho dù nó tàn phá quả thận của con người.

Bạn nghĩ rằng thủ đoạn kiếm lợi nhuận bằng việc sử dụng những chất nhiễm độc như melamine chỉ có trong thực phẩm, thì cũng không chỉ thế thôi đâu.

Nếu xem tất cả những nơi mà chất giết người bằng heparin của Trung Quốc có mặt thì phải hiểu là bọn con buôn bất lương Trung Quốc cũng đang bận rộn làm nhiễm độc cả thuốc chữa bệnh cho chúng ta. Heparin là một loại thuốc chống đông máu dùng trong phẫu thuật tim, truyền máu, mổ tĩnh mạch cho đến thẩm tách thận. Nó được làm từ niêm mạc ruột heo. Trong thực tế, đây chính là con đường để Trung Quốc tham gia vào hoạt động sản xuất heparin: là nước sản xuất thịt heo lớn nhất thế giới, Trung Quốc luôn có nguồn cung ruột heo hầu như vô tận.



Cuối năm 2011, người tiêu dùng phát hiện cục than đen sì trong xúc xích của tập đoàn nổi tiếng ShuangHui

Để giảm chi phí và gia tăng lợi nhuận, các nhà sản xuất Trung Quốc đã bí mật thêm một chất tương tự như heparin, nhưng rẻ tiền và có thể gây chết người gọi là chondritin sulfate với hàm lượng sulfate vượt mức. Chất độc này có thể gây ra những phản ứng nghiêm trọng, đôi khi gây chết người – từ hạ huyết áp và thở gấp đến ói mửa và tiêu chảy.

Và đây là điều bẩn thỉu của trò lừa đảo này: Chất gây độc heparin có cấu trúc hóa học rất gần với heparin thật đến nỗi rất khó bị phát hiện. Giá của nó rẻ hơn heparin thật 100 lần: 9 dollar so với 900 dollar mỗi pound! Vì giá cực thấp như thế, một số lô heparin giả có giá rẻ tới 50%!

Không đâu xa, hãy xem trường hợp cụ thể của anh Leroy Hubley ở Toledo, Ohio về cái chết bởi chất độc Trung Quốc. Anh đã mất người vợ 48 tuổi vì nhiễm chất heparin giả. Chỉ một tháng sau đấy và trước khi phát hiện ra chất độc, con trai của Hubley, cùng bị bệnh thiểu năng thận như mẹ cháu đã trở thành nạn nhân của cùng trò giá rẻ bất lương của nhiều doanh nhân Trung Quốc.

Đến nay, chất độc heparin xuất xứ từ Trung Quốc đã giết hại hàng trăm người Mỹ và làm hàng ngàn người khác bị bệnh. Heparin kém chất lượng đã xuất hiện ở 11 nước khác, bao gồm Nhật Bản, Đức, Ấn Độ và Canada. Mặc dù nhà đương cục của Mỹ và Trung Quốc đã nỗ lực kiểm soát, cho đến nay heparin kém chất lượng vẫn có mặt ở các phòng mổ và các trung tâm giải phẫu.

Bây giờ, chúng ta hãy tự hỏi vì sao mà nhiều doanh nghiệp Trung Quốc ác độc lại sẵn sàng đầu độc thức ăn và thuốc men chỉ vì lợi nhuận?

Câu trả lời của một học giả nổi tiếng Trung Quốc đã chỉ ra một cách sâu sắc đối với vấn đề suy thoái đạo đức của tâm hồn Trung Quốc.

Theo giáo sư kinh doanh Lưu Hải Đồng trong Tạp chí Quản lý và Tổ chức, vấn đề suy thoái đạo đức - và việc chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá đã xảy ra do sự đổ vỡ các nguyên tắc Khổng giáo trong môi trường không có đạo đức và luân thường đạo lý hiện nay trong xã hội Trung Quốc.

Chính xác là sự suy thoái đạo đức, cùng với việc các viên chức chính quyền tham nhũng và luật pháp lỏng lẻo, đã thúc đẩy những người chế biến thực phẩm tích cực sử dụng chất độc hóa học để cải thiện mùi vị và bảo quản thực phẩm.

Thực tế, chính nhà chức trách Trung Quốc cũng đã tìm thấy những trò quái gở ấy trong những bát xúp nóng có thêm formaldehyde để có vị ngon hay nước tương có pha thêm acid cloric và tóc để làm tăng nồng độ acid amin. Nhưng những kẻ dã tâm từ Trung Quốc còn làm xúc xích giá rẻ “tươi ngon” bằng cách cho cả thuốc trừ sâu cực độc vào. Lần sau, mỗi khi định ăn cái gì ngon ngon mà "Made in China”, bạn hãy nhớ nhé!

Đôi khi đấy không phải là án mạng - chỉ là giết người thôi!

'Bây giờ đã rõ mọi vấn đề, nếu Trung Quốc muốn sống trong thế kỷ 21 này, thì họ phải sản xuất theo những tiêu chuẩn như vậy', thượng nghị sĩ Richard Durbin thuộc Đảng Dân chủ – Tiểu bang Illinois) cho biết.

Trong khi “tội giết người cấp độ một” là bản án trong những vụ án melamine hay heparin thì trong nhiều vụ khác, đấy chỉ là “tội ngộ sát” (tội giết người không có chủ đích trước). Vấn đề chủ yếu ở đây là khi Trung Quốc đã trở thành công xưởng sản xuất của thế giới, thì họ cũng đồng thời trở thành bãi chứa chất thải nguy hại và là đất nước ô nhiễm nhất thế giới. Bãi rác cực lớn ấy giờ đây có nghĩa là mảnh đất Trung Quốc dùng để nuôi dưỡng thế giới chứa đầy những chất gây ung thư, kim loại nặng, thuốc trừ sâu bất hợp pháp và những chất độc hại khác.

Có nghĩa rằng việc chất độc từ mảnh đất Trung Quốc đang chảy vào bữa ăn của người Mỹ, người Châu Âu, người Nhật, người Hàn Quốc nên là bằng chứng cho bất kỳ ai quan tâm. (Còn tiếp).

-----
--> Read more..

Putin sẽ không tham gia vào các cuộc diễu hành Ngày 1 tháng Năm


Новость на Newsland: Путин не будет участвовать в первомайских демонстрациях

Путин не будет участвовать в первомайских демонстрациях


Nguồn: vz.runewsland.com

Kichbu posted on 30.04.2013



Tổng thống Nga Vladimir Putin sẽ không tham gia vào các cuộc diễu hành Ngày 1 tháng Năm, thư ký báo chí của người đứng đầu quốc gia Dmitri Peskov thông báo hôm thứ Ba.

 Photo

"Vladimir Putin, rất tiếc, sẽ không tham gia cuộc diễu hành Ngày 1 tháng Năm, bởi vì ông đang làm việc ở Sankt-Peteburg. Hôm nay ở đây ông nghiên cứu các vấn đề khoa học, các vấn đề RGO (Hội Địa lý Nga) tại hội nghị của hội đồng bảo trợ. Ngày mai sẽ tổ chức lễ trao tặng đầu tiên (các Anh hùng lao động) nhân dịp Ngày 1 tháng Năm", - ông thông báo cho "Ban tin tức tiếng Nga".

-----


--> Read more..

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

Một lần là kẻ thù, mãi mãi là bạn


 
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng


Kichbu posted on 30.04.2013

“Độc giả Việt Nam được đọc nhiều tác phẩm cổ điển và tác phẩm hay của các nền văn học nước ngoài như nền văn học Pháp, Nga, Anh, Trung Quốc, Đức, Nhật Bản và nhiều nước trên thế giới nhờ đội ngũ dịch thuật Việt Nam rất hùng mạnh (có thể nói như vậy), biết nhiều ngôn ngữ văn học của nước ngoài và được vậy là nhờ bạn đọc Việt Nam rất khao khát văn học nước ngoài. Ngược lại văn học Việt Nam ra nước ngoài rất hiếm hoi.

Mùa hè năm 1989, có dịp sang Paris, tôi được biết văn học Trung Quốc được dịch sang tiếng Pháp rất nhiều, rất phong phú, vì người Hoa ở Pháp có một nhà xuất bản, là cánh cửa rộng cho văn học Trung Quốc. Còn người Việt ở Pháp chỉ có một tạp chí tiếng Việt, đó là cánh cửa hẹp của văn học Việt Nam khi muốn đến bạn đọc Pháp.

Cũng mùa hè năm 1989, tôi sang Mỹ, đến Boston dự cuộc hội thảo “Nhìn chiến tranh từ hai phía” với các nhà văn, nhà thơ cựu chiến binh Mỹ.

Người đầu tiên tôi gặp là nhà thơ Kevin Bowen (và tôi ở luôn trong nhà của anh – Anh là tác giả của bài báo “Một cuộc chiến tranh khác trong lương tâm người Mỹ”).” 

Báo GD&TĐ xin trân trọng giới thiệu với độc giả bài viết  của nhà văn Nguyễn Quang Sáng  về cuộc gặp gỡ với những nhân vật, với sự trải nghiệm và cách nhìn mới, nhân văn  về những người Mỹ yêu hòa bình  qua cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.

Một cuộc chiến tranh khác trong lương tâm người Mỹ

 
Tôi muốn mượn lời của Kevin Bowen để giới thiệu “Trung tâm nghiên cứu hậu quả xã hội và chiến tranh” mà Kewin Bowen làm Giám đốc. Vốn là một cựu chiến binh ở chiến trường Tây Ninh (từ 1968 và 1969). Sau khi trở lại Việt Nam, anh có viết bài cho báo The Christian Science Monitor (Người đưa tin khoa học Cơ đốc giáo) số ngày 10/11/1988. Tôi nghĩ đây cũng là quan điểm của Trung tâm. 

Anh viết: Năm 1982, khi Đài tưởng niệm Cựu chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh ở VN được khánh thành tại Hoa Thịnh Đốn, ít người có thể thấy trước được sự tác động của nó, hoặc với cựu chiến binh, hoặc đối với đất nước mình, và sự cống hiến của tượng đài còn trong quá trình diễn tiến. Tựa vào nền đá hoa cương đen bóng khắc ghi danh sách 58.000 người chết, chúng ta bắt đầu trở lại cuộc đối thoại với Việt Nam.

Đối với nhiều người trong chúng ta cuộc đối thoại này chưa bao giờ bị đổ vỡ hoàn toàn. Từ Quốc hội đến các phòng ban, đến từng gia đình những gì là của Việt Nam vẫn thường xâm nhập vào sinh hoạt cuộc sống mỗi ngày.

Việt Nam là nơi trôi đi tuổi trẻ chúng ta, có người muốn nói là nơi tuổi trẻ họ bị đánh mất. Một số người khác lại muốn nói rằng Việt Nam là nơi mà tuổi ngây thơ của họ bị chôn vùi. Ít nhất đó là một nơi – thực tế và tượng trưng đang còn níu kéo chúng ta.

Đối với  đa số người Mỹ, chiến tranh Việt Nam là những điều được nghe thấy ở trên TV, ở báo chí. Kinh nghiệm về nó đã được truyền đạt thông qua tiếng nói của những người khác. Khi dứt chiến tranh thì hình ảnh cũng nhạt nhòa. Việt Nam đã không còn tồn tại nữa.

Với những người lính thì không phải vậy. Đối với chúng ta, những tiếng nói và những hình ảnh vẫn luôn còn đấy, đang tìm một thứ ngôn ngữ của những giấc mộng, để mà trao đổi cùng nhau.

Mười lăm năm đã trôi qua kể từ ngày quân đội Mỹ rời khỏi Việt Nam. Ngày nay, đối với nhiều cựu chiến binh đã đến thời điểm của một cuộc dấn thân khác, của một trận tuyến dẫn dắt chúng ta quay lại miền đất mà chúng ta đã chiến đấu ngày xưa.

…Đó cũng là một bước đi có những hiểm nghèo. Nhưng quay trở lại Việt Nam là chấp nhận một bước đi thận trọng đầu tiên vào những thế giới im lặng đã được khóa kín trên nền hoa cương bóng loáng của đài tưởng niệm. Quay trở lại đó là để cố gắng phá vỡ bức tường im lặng.

Ở vào thời điểm thứ nhất, đa số chúng ta đi vào trận chiến đã quay về đơn độc. Chúng ta quay về trong sự im lặng. Nói về chiến cuộc, nói về Việt Nam còn hơn nói về một khủng hoảng chính trị nội bộ, chỉ làm dân chúng phiền lòng.

Và liệu chúng ta có thể nói được những gì? Chẳng lẽ nói về những nỗ lực của chúng ta, về lý tưởng, về những chiến công gan dạ, hoặc về những điều bất thiện không còn có trong bối cảnh dầu ở phạm vi cá nhân hay ở ý nghĩa lịch sử một khi chiến tranh đã chấm dứt rồi và nước Việt Nam Cộng hòa không còn trên bản đồ.

Chúng ta đã đến Việt Nam vì Việt Nam, vì nhân dân Việt Nam, hoặc đại khái như người ta đã bảo chúng ta như thế. Ở vào cái tuổi 19 và 20 của đa số chúng ta lúc ấy, vào cái thời điểm tương lai hãy còn mờ mịt và những sợi dây vướng mắc gia đình và tuổi thanh niên tan biến, đất nước Việt Nam cũng như cuộc chiến ở đấy là cái kinh nghiệm sống động hơn hết của cuộc đời mình. Nó ghi dấu cái thời khoảng chúng ta sống đời độc lập, ghi dấu hành động chủ động đầu tiên của chúng ta trên thế giới. Và còn ý nghĩa cuối cùng của nó chỉ là mất mát, phá hoại và lặng im.

Quay lại Việt Nam vào thời điểm thứ hai là một nỗ lực, không phải để phục hồi quá khứ, nhưng phục hồi lại ý nghĩa của nó đối với chúng ta. Qua những hành động của mình, chúng ta cố gắng xác nhận lại tính trung thực của những mục đích chúng ta. Ở tuổi 19 và 20, đi vào bước đầu của tuổi trưởng thành, chúng ta bị kẹt giữa hai thế giới đang tìm cách hủy diệt nhau. Vào tuổi 39 và 40, là bước thứ hai của cuộc đời mình, chúng ta lại tìm cách để phục vụ cái thế giới ấy một cách ý nghĩa.

Những vấn đề của Việt Nam hôm nay khác hẳn với những vần đề của hai mươi năm về trước. Khá nhiều những vấn đề là hậu quả của cuộc chiến – sự tàn phá vì bom đạn, vì khai hoang, vì thiếu viện trợ kinh tế, thật đã rõ ràng trước mắt. Các cuộc viếng thăm bệnh viện và các trung tâm sản xuất dành cho những người tàn phế khiến chúng ta rất xót xa. Những cựu chiến binh đến đây để viếng thăm thấy thông qua sự trợ giúp là một cơ hội làm đổi mới và điều chỉnh lại lịch sử của sự tham dự của mình từ trước.

Ít nhất chỉ cần mua một con bò cho cô nhi viện, hoặc những con gà cho một trung tâm phục hồi người nghiện ma túy và gái mại dâm, những hành động ấy mang một ý nghĩa sâu xa. Nó xác định lại tiếng nói của ký ức, và còn có thể xác định lại lịch sử của hai mươi năm sau…

Từ chiến tranh Việt Nam, Marilyn trở thành nhà thơ 

 Nhà thơ Marilyn 
Ngày 25/7/1989. Tôi phỏng vấn chị Marilyn là một cựu chiến binh Mỹ và cũng là một nhà thơ, trong phòng làm việc của trường Đại học Massachusetts, từ đó nhìn ra cửa sổ là thư viện của Kennedy sát bên bờ vịnh Boston và xa hơn là Đại Tây Dương. Sau khi phỏng vấn, tôi xin chị một tấm ảnh.

Và chị trao cho tôi một ảnh đã chụp cách đây đúng hai mươi năm, năm 1969, lúc chị làm việc trong một bệnh viện của quân đội Mỹ ở Đà Nẵng. Ảnh chụp lúc chị chăm sóc cho một em bé Việt Nam lên chín bị phong đòn gánh. Chị hãy còn nhớ tên của em: em Nguyễn Quang Thân. Tấm ảnh này chị luôn giữ bên mình, tấm ảnh đã an ủi chị rằng: Dù là một nữ y tá trong quân đội Mỹ nhưng chị đã không làm gì gây nên tội ác mà đã cứu sống một em bé Việt Nam. Với chị đó là niềm vui là nguồn an ủi đối với cuộc đời của chị.

Marilyn sinh vào tháng 12 năm 1944, trong một thành phố nhỏ thuộc tiểu bang Hoa Thịnh Đốn, trong một gia đình lao động, ba là tài xế autobus, mẹ là thư ký đánh máy. Chị có bốn chị em gái, chị là chị cả. Lớn lên chị học về Y trong Đại học Sihato. Hai năm cuối đại học, cha mẹ không nuôi nổi, chị xin vào Hải quân để được trợ cấp.

Ra trường vào năm 1967, làm y tá cho một bệnh viện cấp cứu trên một hòn đảo. Một hòn đảo nằm dưới Hoa Thịnh Đốn và Niu Ứơc. Ở bệnh viện này, mỗi ngày có ít nhất ba mươi thương binh từ Việt Nam đưa đến: Những người lính cụt tay và cụt chân. Bệnh viện của chị chỉ có nhiệm vụ rửa ráy vết thương, băng bó rồi đưa họ đến một bệnh viện khác, điều trị lâu dài hơn.

- Chị có nghe họ nói gì về chiến trường Việt Nam?

- Không! Họ không nói gì, và tôi cũng không hỏi. Tôi chỉ làm nhiệm vụ của một người y tá, tôi không tò mò.

Hơi lạ về sự vô tâm của chị, tôi hỏi tiếp:

- Chị thấy họ vui hay buồn và tâm trạng của họ thế nào?

- Họ vui. Vui vì được còn sống. Cụt tay cụt chân mà còn sống hơn là chết. Sống họ được gặp cha mẹ, bạn bè...

- Nhìn những người lính Mỹ bị cụt tay cụt chân ấy, chị có căm thù chúng tôi không?

- Không! – Marilyn trả lời dứt khoát. – Tôi căm thù những người cầm đầu chính phủ tôi, chính họ đã đưa thanh niên vào chỗ chết và tàn tật.

Marilyn, một phụ nữ Mỹ 45 tuổi, hơi mập, một nụ cười hiền lành, một đôi mắt sâu sắc mà nhân từ trên gương mặt phúc hậu.

Chị sang Việt Nam vào năm 1969. Như chị nói, chị sang Việt Nam không phải tiếp tay cho tội ác, mặc dù chị là sĩ quan quân y của quân đội Mỹ, chị sang Việt Nam là muốn tận mắt nhìn nỗi đau của thanh niên, những người cùng một lứa tuổi trong chiến tranh Việt Nam, và với lương tâm của một người thầy thuốc chị muốn xoa dịu phần nào nỗi đau của cuộc chiến.

- Ở Việt Nam chị có tiếp xúc với người Việt Nam nhiều không?

- Ít! Tôi không có điều kiện tiếp xúc với người Việt Nam kể cả lính của quân đội Sài Gòn. Chỉ một đôi lần, nhưng lần nào cũng để trong tôi một ấn tượng không thể quên. Có một hôm, quân đội Mỹ bắt được một nữ du kích. Vì bị sốt rét, người ta đưa cô đến bệnh viện của tôi. Vừa thấy mặt tôi, cô du kích chồm lên, đưa hai tay xô đến tôi, cô muốn đánh, muốn giết tôi.

Tôi nhớ và nghĩ mãi về cô du kích ấy. Cô căm thù tôi, và cô liều chết xông đến muốn giết tôi. Có lẽ cô không ngờ trong cái quân đội đã giết chết bao nhiêu đồng chí bạn bè của cô, đã bắn phá quê hương cô lại có một người đàn bà! Tôi kính trọng lòng căm thù và khâm phục lòng dũng cảm của cô, người nữ du kích của Việt Nam.

Hết thời gian nghĩa vụ, trở về Mỹ, chị rời khỏi quân đội, rời cả nghề y, chị làm thơ, viết về nỗi đau của chiến tranh Việt Nam.

Chị Marilyn đã đọc cho tôi nghe bài thơ:

Trong khu vực chiến tranh

Trong khu vực chiến tranh

Có nhiều thằng hề

Những thằng hề xiếc mặt buồn rười rượi

Những vai trò phi lý, không thể tin được.

Người ta cười thằng hề

Để khỏi khóc.

Người ta làm thằng hề

Để khỏi biết đến

Cái nhu cầu phải khóc...

Tượng Phật với người lính Mỹ 


  
Từ Mỹ trở về, tôi có mang theo giọng nói của một số cựu chiến binh mà tôi có dịp phỏng vấn qua băng ghi âm, trong đó có lời kể của Larry Rottmann về một tượng Phật Việt Nam mà anh đã giữ gìn suốt hai mươi mốt năm và anh vừa trao lại cho UBND Huyện Hóc Môn vào ngày 9/7/1989. Tôi nghe anh kể vào buổi trưa ngày 11/8/1989 trong thành phố Boston thuộc tiểu bang Massachusetts. Vậy là anh vừa sang thăm Việt Nam mới về. Và câu chuyện hãy còn nóng hổi. Với bộ râu rậm trên gương mặt hiền từ, Larry Rottmann trông trầm lặng lúc nào cũng suy tư. Ấn tượng đầu tiên rất khó quên đối với tôi là khi anh trao cho tôi tấm danh thiếp. Danh thiếp của một người Mỹ nhưng lại in bằng tiếng Việt “Larry Rottmann, Giáo sư Anh văn”. Sợ tôi không để ý, anh đưa ngón tay út chỉ ngay hàng chữ Việt rồi cười, một nụ cười đắc ý và đôi mắt như hỏi lại tôi “có được không?”. Cầm tấm danh thiếp của anh tôi bỗng nhớ đến số danh thiếp của bạn bè Việt Nam đã trao cho tôi mấy năm gần đây. Danh thiếp người Việt in bằng chữ Anh, chữ Pháp. Ghi nhớ lại điều này tôi không có ý phê phán hay móc lò số bạn bè của tôi. Xin lỗi nhé! Tôi hiểu đó là sự cần thiết cho công việc đối ngoại của các bạn. Còn Larry Rottmann in chữ Việt là muốn tỏ lòng mình với Việt Nam.

Đến ngày 25/9/89, sau khi về lại Thành phố, tôi đến Ủy ban huyện Hóc Môn, xin gặp đồng chí Chánh văn phòng Lê Văn Dũng để xác minh câu chuyện của Larry Rottmann. Không phải tôi không tin Larry Rottmann, mà vì thận trọng của thói quen nghề nghiệp. Một bài báo phải tôn trọng sự thật. Tôi không muốn thêm dù một chi tiết rất nhỏ theo nghĩa hư cấu của một truyện ngắn hay tiểu thuyết. Mà đây, bài viết này là ghi nhận một chuyện thật.

Đúng như Larry Rottmann đã kể, Lê Văn Dũng đã cho tôi xem lại tượng Phật của Larry Rottman mang từ Mỹ trao lại cho nhân dân Hóc Môn. Tượng Phật Di Lạc, tượng cao cỡ 7 tấc bằng gỗ mút, sơn son, phết vàng. Hai cánh tay giơ lên khoan thai, với nụ cười mở rộng, từ bi, tượng truyền cho ta cảm giác yên ổn, một cảm giác phủi hết bụi trần. Tượng đã sống trên nước Mỹ, trong lòng một cựu chiến binh Mỹ suốt 21 năm.

Lính Mỹ dưới ngòi bút của Tim OBrien

Ngay lúc còn là lính ở chiến trường Việt Nam, Tim OBrien đã nghĩ:  “Sau khi những viên trung sĩ và các khẩu súng trường đã ra khỏi cuộc đời tôi, tôi sẽ lập nên một danh sách dài, thật dài. Tôi sẽ viết về quân đội, sẽ vạch sự tàn bạo bất công, ngu ngốc và kiêu căng của chiến tranh và những kẻ  trong cuộc chiến. Tôi sẽ đề cập một vài tên mang tính điển hình. Vạch ra trong các tội lỗi của các trung sĩ đã huấn luyện một cách một cách sống động, cho họ xuống địa ngục mà than khóc cái ngày họ đã gây rắc rối đối với thằng binh nhì OBrien. Tôi sẽ vạch sự vô ý tứ mà có kẻ như Rece đã đùa giỡn với mạng sống của tôi. Tôi sẽ mở một cuộc thập tự chinh chống lại cuộc chiến tranh này, và khi được thả về, nếu tìm ra được cuộc chiến tranh khác, tôi sẽ làm việc để khám phá xem chúng có đúng đắn và cần thiết không? Và nếu tôi tìm ra được là chúng, tức chiến tranh, không có một ý nghĩa gì tôi sẽ tiếp tục mở một cuộc thập tự chinh khác, chống lại chúng”.

Tôi gặp Tim OBrien loáng thoáng đôi lần trong Đại học Massachusetts qua các cuộc hội thảo.

Tôi được giới thiệu sau khi anh đi ngang qua “Tim OBrien một nhà văn nổi tiếng”. Trông anh hãy còn trẻ, so với người Mỹ anh là người nhỏ con, dáng vóc như một người Việt Nam, cũng rất lạ anh rất giống một người bạn trẻ của tôi, một nhà văn trẻ Việt Nam. Chỉ cần thấy anh lướt qua một lần tôi cũng đoán biết ngày bé, anh là đứa bé nghịch ngợm.

Và tôi đã gặp riêng anh trong một ngôi nhà yên tĩnh của một cựu chiến binh Mỹ vào buổi chiều ngày 2/8/89. Tôi đã trao đổi và phỏng vấn anh.

Tim OBrien vui tính, lúc nào cũng cười to, cười sảng khoái sau khi kể lại một nguy hiểm của đời lính, như một người vui vừa thoát chết.

Tim OBrien sinh vào ngày 1-10-46 ở miền Trung nước Mỹ trong một gia đình trung lưu. Cha là nhân viên của một công ty bảo hiểm, mẹ là giáo viên. Tuổi thơ anh lớn lên qua các trường. Lúc đến tuổi nhập ngũ, anh là sinh viên của một trường cao học. Vốn là người hoạt động phản chiến trong sinh viên, anh không thích quân đội. Muốn thoát khỏi con đường quân đội chỉ có hai đường, một là ngồi tù, hai là trốn qua Canađa. Tôi không muốn làm gì cho cha mẹ tôi buồn. Tôi không ngồi tù. Và cũng thú thực, tôi không có can đảm, nếu có can đảm thì tôi đã vượt qua Canađa. Tôi không thích quân đội, tôi không muốn nhập ngũ không phải vì tôi không yêu đất nước tôi. Nếu chống Cộng sản thì tôi chống một chế độ độc tài như tôi đã nghe nói, còn đối với Cộng sản Việt Nam thì khác, theo tôi Cộng sản Việt Nam là Cộng sản bắt nguồn từ cội rễ dân tộc Việt Nam, họ không có cái để tôi ghét và chống. Tôi hiểu, nhưng cái bi kịch của tôi, tôi hiểu mà vẫn phải đi lính, đi lính sang Việt Nam. Và thật xui xẻo cho tôi, tôi lại là một tên lính của một sư đoàn mạnh nhất của quân đội Mỹ. Trong quân đội cũng có nhiều loại lính: có lính làm cấp dưỡng, có lính văn phòng, có lính bộ binh, một anh lính binh nhì với khẩu súng M16. Trớ trêu vậy và lại xui xẻo hơn nữa là tôi lại rơi vào một chiến trường gay gắt nhất Việt Nam. Từ sân bay Sihato tôi xuống Cam Ranh, từ Cam Ranh tôi bị đưa đi Chu Lai rồi từ Chu Lai bị chuyển về Mỹ Lai.

- Nhưng tôi không phải là người gây ra vụ Mỹ Lai đâu! - Anh hét to và cười ré lên - tôi đến Mỹ Lai sau vụ Mỹ Lai xảy ra một năm. Tôi đến Mỹ Lai vào tháng 2/1969, Mỹ Lai là nơi gây ra nỗi kinh hoàng cho quân đội chúng tôi. Chúng tôi luôn luôn sống trong nỗi lo sợ xa lạ và cô đơn. Nhìn người dân thì biết, họ căm ghét chúng tôi, từ một lý do thật dễ hiểu. Là một người lính tôi luôn thờ ơ những gì là chính trị đang xảy ra. Nhưng tôi phải hiểu vì sao người dân ở đây ghét chúng tôi. Khi tôi hiểu, tôi muốn phát khóc. Quân đội Mỹ chúng tôi: đội quân xâm lược.

Một lần là kẻ thù, mãi mãi là bạn

Mười lăm năm qua, tiếng súng đã tắt, nhưng tâm hồn của người lính Mỹ vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh, họ muốn quên đi cuộc chiến tranh mà mỗi ngày họ mỗi nhận rõ thêm sự phi lý, sự vô nghĩa và tội ác họ đã gây ra ở Việt Nam, nhưng cuộc chiến đã không buông tha họ. Từ đó, sau một thời nguội lạnh, mấy năm gần đây đề tài chiến tranh Việt Nam bỗng rộ lên trên nền văn học Hoa Kỳ, những thiên hồi ký hoặc tự truyện của các cựu chiến binh Mỹ, viết bằng tim óc và xương máu. Như Bruce Weight, tác giả của tập thơ “Bài ca Napan”, nói: “Từ nỗi đau của cuộc chiến tranh Việt Nam, tôi trở thành nhà thơ”. Báo chí nước Mỹ viết về những tác phẩm của các tác giả cựu chiến binh Mỹ như sau: “Đó là những hồi ký trong cái ý nghĩa hoàn toàn văn học của từ ngữ đó. Các tác giả cựu chiến binh Mỹ đã viết với nỗi đau đớn và đam mê về thực chất của chiến tranh. Tác phẩm của họ có thể trên thực tế là những tác phẩm vĩ đại, có thể so sánh với Người trần truồng, Người chết và tù đày đến Vĩnh Hằng của đệ nhị thế chiến. Tác phẩm của cựu chiến binh Mỹ đã gợi lên một cách lặng lẽ và tài tình cuộc sống thường ngày của những người lính Mỹ trên đồng ruộng, trong hố cá nhân, gợi lên một cuộc chiến tranh mù quáng, sai lầm và ngớ ngẩn. Họ viết về cảm xúc về chiến tranh, là sự sợ hãi đến chết khiếp và những kẻ điên khùng. Là những tác phẩm gây ám ảnh, và nhanh gọn như một vệt điện đỏ của viên đạn M16 xẹt qua đêm tối Việt Nam. Bạn đọc ao ước tác giả cựu chiến binh Mỹ từng viết hay đến như vậy, vì tác phẩm làm người đọc không thể nào quên được sách của họ. Người đọc sẽ còn đọc nhiều lần trong nhiều năm nữa, nó sẽ còn có một sức mạnh khủng khiếp, khiến người đọc phải nhớ lại không thể nào quên”.

Qua những cuộc gặp gỡ thân tình đó, chúng tôi còn muốn hiểu nhau hơn, sâu sắc hơn qua tác phẩm văn học. Cũng từ đó, đôi bên cũng lần lượt dịch tác phẩm của nhau.

Với tôi, trung tâm William Joinner là một cánh cửa rộng để văn học Việt Nam đến bạn đọc thế giới. Là một công việc lâu dài đầy hứa hẹn.


--> Read more..

Nguyễn Văn Thiệu: "Cờ thí" trong ván cờ chính trị Mỹ


 

Nguồn: kienthuc.net.vn

Kichbu posted on 30.04.2013



Không có thực quyền, mọi quyết định quan trọng đều phải nghe theo Mỹ... Thực chất Nguyễn Văn Thiệu chỉ là quân cờ trên bàn cờ chính trị của Mỹ?


Cờ bí dí tốt

Nguyễn Văn Thiệu được dựng lên nhờ Mỹ. Người ta đánh giá chính quyền Thiệu lệ thuộc Mỹ nhiều hơn thời Ngô Đình Diệm. Sự lệ thuộc ngày càng nhiều khiến Nguyễn Văn Thiệu mất dần thế đứng để trở thành một quân bài trong ván bài chính trị cả đối nội lẫn đối ngoại của Mỹ.
Sự kiện đầu tiên chứng tỏ điều đó là vụ bầu cử năm 1968 ở nước Mỹ. Thời điểm đó vừa trải qua cú sốc Tết Mậu Thân. Tương lai hòa bình còn rất tăm tối. Áp lực dư luận đòi kết thúc chiến tranh đè nặng lên Johnson. Trước tình thế đó, Johnson tuyên bố không ra ứng cử nhiệm kỳ 2 và đề cử Phó Tổng thống Hubert Humphrey. Để giúp Humphrey, Johnson quyết định xuống thang chiến tranh. Một mặt tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam. Mặt khác gây sức ép với Nguyễn Văn Thiệu để Sài Gòn cử đoàn đàm phán đến Paris. Mục tiêu của Johnson trong việc ép Thiệu là để xoa dịu dư luận về viễn cảnh đàm phán hòa bình.

Nguyễn Văn Thiệu (phải) và Nguyễn Cao Kỳ. Ảnh: Pháp luật TP.HCM. 


Qua đại sứ Bunker tại Sài Gòn, Johnson ra sức thúc ép Thiệu cử phái đoàn đến Paris đàm phán. Cùng lúc này, người phụ trách vận động tranh cử của Nixon lại thông qua bà Chennault (quen biết với ông Thiệu) liên tục gửi thông điệp vận động Thiệu trì hoãn việc đến Paris, chờ Nixon lên làm Tổng thống thì mọi việc sẽ tốt đẹp.

Kết quả là ông Thiệu ngả về phía Nixon, ông ta luôn nói: “Với cộng sản không bao giờ có thương lượng”. Ngày 1/11/1968, Thiệu đọc diễn văn trong lễ mừng ngày quốc khánh đệ nhị Cộng hòa, tuyên bố không cử đoàn đàm phán đến Hội nghị Paris. Quyết định này đưa ra trước cuộc bầu cử ở Mỹ 5 ngày đã biến các cố gắng xuống thang chiến tranh của Johnson trở thành vô nghĩa. Nixon đã thắng cử nhờ vào hành động trợ giúp của Thiệu. Trong hồi ký của Johnson, ông ta viết “Tôi tin chắc rằng sự việc đó (hành động của Thiệu) đã khiến ông Humphrey thất cử”.

Đây là lần đầu tiên Nguyễn Văn Thiệu bị lôi kéo và trở thành một quân bài trong ván bài chính trị nội bộ của nước Mỹ. Oái oăm thay, hành động của Thiệu lại khiến Thiệu lún sâu vào vai trò một quân bài. Vài ngày sau cuộc bầu cử, người vận động tranh cử của Nixon lại thông qua bà Chennault gửi thông điệp cho Thiệu nhưng giờ đây là “Nên tham dự ngay các cuộc hòa đàm ở Paris”. Chính Nixon trong lần thăm Nhà Trắng ngày 11/11/1968 cũng công khai phát biểu: “Chính phủ Johnson không những có thể hành động nhân danh chính quyền hiện nay mà còn nhân danh cả toàn quốc và như thế có nghĩa là nhân danh cả chính quyền sắp tới nữa”. Lời phát biểu của Nixon được Sài Gòn hiểu rằng tân tổng thống đã bắt đầu gây áp lực đối với mình.

Nước cờ tàn của Nixon

Kể từ năm 1968, Mỹ đã bắt đầu muốn rút ra khỏi cuộc chiến. Nhưng rút như thế nào là vấn đề rất quan trọng. Không thể lặng lẽ cuốn cờ ra đi. Làm như vậy tức là thừa nhận thất bại đồng thời sẽ bị chỉ trích là bỏ rơi đồng minh. Nhưng lúc này, người Mỹ đã quá mệt mỏi cả về kinh tế lẫn chính trị. Họ không còn cho sứ mệnh ngăn chặn cộng sản là trách nhiệm của mình như hồi thập niên 1950 nữa. Vấn đề bây giờ của họ là làm sao thoát khỏi cuộc chiến tranh này trong danh dự, mang được tù binh về mà vẫn không bị coi là bỏ rơi đồng minh.
 
Chân dung Nguyễn Văn Thiệu. Ảnh: Phunutoday. 


Trong thực tế, từ năm 1968, Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đàm phán công khai và bí mật ở Paris nhiều lần. Cho đến năm 1972, cơ bản các điều khoản đã hoàn thành. Người Mỹ đã có được những điều họ muốn: rút trong danh dự, lấy được tù binh. Nhưng chỉ còn điều cuối là tránh mang tiếng bỏ rơi đồng minh thì họ còn đang vướng mắc.

Thiệu cực lực phản đối Hiệp định vì ông ta biết với điều khoản Mỹ rút mà “Cộng sản” không phải rút thì sớm muộn ông ta sẽ thua. Nhưng bây giờ mối quan tâm hàng đầu của Mỹ không phải thua hay thắng mà là làm sao để rút đi cho sớm. Muốn vậy, Mỹ phải ép Thiệu ký sớm.

Trong cuốn Khi đồng minh tháo chạy, dựa trên tập hồ sơ về bang giao Mỹ Việt trong giai đoạn trước 1973, ông Nguyễn Tiến Hưng đã dẫn ra nhiều bức thư của Nixon thúc giục Nguyễn Văn Thiệu ký Hiệp định.

Để đạt mục đích, Nixon giơ ra một “củ cà rốt” để thuyết phục Thiệu. Bức thư đề ngày 16/10/1972, Nixon viết: “Riêng đối với tôi thì điều khoản quan trọng nhất của Hiệp định, ngoài những khía cạnh quân sự của nó, là Chính phủ ngài, quân lực và những định chế chính trị của VNCH sẽ còn nguyên vẹn sau khi cuộc ngưng bắn được tôn trọng. Trong thời kỳ tiếp theo sau đình chiến, Ngài có thể hoàn toàn an tâm là chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp cho Chính phủ của Ngài sự yểm trợ đầy đủ nhất, kể cả viện trợ kinh tế và bất cứ viện trợ quân sự nào phù hợp với những điều khoản đình chiến của Hiệp định này… Tôi xin cam kết với Ngài rằng, bất cứ một sự bội tín nào về phía họ cũng sẽ bị chúng tôi lên án khắt khe nhất và nó sẽ có những hậu quả trầm trọng nhất”.

Việc Thiệu ký hay không, vào thời điểm này còn ảnh hưởng cả đến việc Nixon có trúng cử nhiệm kỳ 2 hay không vì cuối năm 1972 sẽ diễn ra bầu cử. Trong khi đó, dù biết áp lực Mỹ gia tăng nhưng Nguyễn Văn Thiệu vẫn cố gắng trì hoãn với lý do sự có mặt các lực lượng “cộng sản” còn lại là mối nguy hiểm. Hai bên tiếp tục thư từ nhiều lần nữa. Trong khi Thiệu còn chưa quyết định thì ở Washington, Kissinger rầm rộ tuyên bố: Hòa bình đã ở trong tầm tay. Nixon nhờ đó đắc cử lần hai.

Nhưng ngày đăng quang đã gần tới mà chưa thuyết phục được Thiệu, Nixon bắt đầu sốt ruột. Thư đề ngày 14/1/1973, Nixon dọa dẫm: “Tôi nhất quyết cho phê chuẩn bản Hiệp định vào ngày 23 tháng 1 và sẽ ký vào ngày 27 tháng 1, 1973 tại Paris. Tôi sẽ làm việc này dù phải làm một mình, trong trường hợp đó, tôi sẽ công khai tố cáo Chính phủ của Ngài làm cản trở cho công cuộc vãn hồi hoà bình tại Việt Nam… Kết quả không tránh khỏi sẽ là việc cắt viện trợ quân sự và kinh tế ngay lập tức, mà dù có sự thay đổi về nhân sự trong Chính phủ của Ngài cũng không thể cứu vãn được”.

Theo Nguyễn Tiến Hưng, trong “từ điển chính trị” về mối quan hệ Việt Nam – Mỹ thì “thay đổi nhân sự” là một cách nói giảm nhẹ của đảo chính. Tuy nhiên, Nixon cũng không quên ngọt nhạt sẽ bảo đảm viện trợ quân sự, kinh tế và trợ giúp quân sự cho Sài Gòn khi cần. Đến đây Thiệu buộc phải “đầu hàng”. Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris về vấn đề Việt Nam đã được ký kết. Mỹ đã đạt được mọi toan tính của họ.

Ngay từ đầu, việc ông Thiệu “lên ngôi” đã là một nước cờ của Mỹ. Không phải vì Thiệu có tài năng xuất chúng mà vì: “Nếu bỏ Thiệu, như Washington hiểu một cách đúng đắn, thì sẽ là một mớ hỗn tạp của những tập đoàn gây chiến, những phe phái và những người tham lam đã nổi lên sau khi Diệm chết và vì thế mà sản sinh ra một sự mất ổn định triền miên chỉ có lợi cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng” (Gabriel Kolko - Giải phẫu một cuộc chiến tranh).

Do vậy, khi chiến lược của Mỹ thay đổi, Mỹ muốn rút khỏi Việt Nam thì Mỹ sẽ bỏ Thiệu hoặc dùng Thiệu để làm con cờ thí cho ván cờ tàn của họ. Thực tế trong việc ép Thiệu ký Hiệp định, Mỹ đã bỏ rơi Thiệu, vấn đề chỉ là họ cố gắng cho sự bỏ rơi đó có lý do chính đáng mà thôi.
Đọc thêm:


------
--> Read more..

Có một giờ G khác vào năm 1974






Nguồn: sgtt.vn

Kichbu posted on 30.04.2013

35 năm hoạt động, trên vai áo ông từng đeo quân hàm không quân hai bên là đối thủ của nhau. 22.000 giờ bay với nhiều loại phi cơ chiến đấu và dân dụng hiện đại nhất từ Đông sang Tây, từ Á sang Âu. Những nếm trải cuộc đời, dường như Nguyễn Thành Trung chẳng thiếu thứ nào. Người ta thường nói vinh quang đi cùng cay đắng. Còn ông, sống chết, tù tội chẳng màng, nhưng những giây phút cô đơn trong cuộc sống hoà bình, ngay trong lòng đồng đội thì thật dài và khó quên. Tháng tư đến rồi lại đi cùng ký ức…

Chặng đường lịch sử dài 38 năm có quá nhiều biến cố, sự kiện ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975 đối với ông có ý nghĩa gì? Bây giờ nghĩ về giây phút ấy ông cảm thấy thế nào?

Đối với cá nhân tôi, ngày 8.4.1975 là một bước ngoặt lịch sử quan trọng nhất trong cuộc đời. Lái chiếc máy bay F-5E ném hai trái bom xuống dinh Độc Lập, sau đó quay lại dùng súng phóng lựu vào kho xăng Nhà Bè, là hành động mà tôi ấp ủ trong một quá trình dài, ngay từ thời trai trẻ.

Đối với tôi, chấm dứt chiến tranh để người Việt Nam không còn đổ máu là một việc lớn phải làm. Đó không phải là cảm hứng nhất thời, hay bất chợt, liều lĩnh. Sự nỗ lực cá nhân suốt bao nhiêu năm ở khoa toán – lý đại học Khoa học Sài Gòn, trong vỏ bọc sĩ quan không lực Việt Nam Cộng hoà, hay tại các trung tâm học lái máy bay chiến đấu ở Hoa Kỳ từ năm 1969 – 1972 tôi vẫn chuyên chú cho hành động ấy. Tôi âm thầm luyện tập hạ cánh ở cự ly gần 1.000 mét (trong khi máy bay F-5E phải đáp trên đường băng dài tối thiểu 3.000 mét) đến độ hư hai máy bay và phải chịu kỷ luật hạ lương, giáng chức, suýt nữa là bị lộ tại sân bay Biên Hoà. Nhờ vậy mà ngày 8.4 năm ấy tôi đã hành động chính xác, đáp xuống an toàn tại sân bay dã chiến Phước Long vừa giải phóng. Có thể gọi đó là sự chính xác của lý trí và khoa học. Bước ngoặt 180 độ đó cho tôi được chính danh là tôi – Nguyễn Thành Trung như ngày hôm nay.

Nhưng báo chí cả hai phía lúc đó chạy những dòng tít lớn gọi ông là “phi công phản chiến”?

Đúng vậy, cấp trên nói với tôi là cần tuyên truyền như vậy để kêu gọi những người trong lực lượng không quân Sài Gòn tiếp tục phản chiến. Tôi nghĩ nói sao cũng được, vấn đề là tôi có làm được nhiệm vụ không? Có còn sống để trở về không? Từ năm 1969, tôi đã là đảng viên.

Còn các đồng nghiệp của ông nói gì về hành động của ông?

Ngay lúc đó thì tôi không biết họ nói gì, nhưng sau này nhiều người cho là tôi hành động hơi dại dột, bởi trước mắt tôi là một hợp đồng với phía Mỹ, sẵn sàng bảo lãnh vợ con tôi sang sống ở Mỹ với điều kiện tốt nhất. Nhưng đó không là lựa chọn của tôi.

Vậy lựa chọn của ông bắt nguồn như thế nào, truyền thống cách mạng của gia đình hay sự tự giác của cá nhân ông?

Ba tôi là một người yêu nước, chống thực dân và hy sinh tại quê nhà. Các anh tôi cũng đi theo con đường yêu nước của ba tôi. Cái chết của ba tôi, càng làm cho tôi ý thức rõ ràng hơn là phải góp phần làm cho chiến tranh sớm chấm dứt, quê hương và dân tộc mình phải được sống trong cảnh thanh bình. Tôi là người biết rõ mình là ai, mình cần phải làm gì. Những việc quan trọng cần làm tôi luôn dự liệu trước hàng chục năm.

Thời khắc đó ông có nghĩ đến sự an toàn của vợ và hai con còn quá nhỏ đang sống ở thành phố Biên Hoà? Có khi nào ông cảm thấy khổ tâm hay hối hận về hành động của mình mang lại nỗi vất vả cho vợ con?

Trước khi ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975, lãnh đạo đề nghị đưa vợ con tôi ra vùng giải phóng để tôi yên tâm làm nhiệm vụ. Nhưng lúc đó, tôi bị nghi kỵ nhiều, nguy cơ bị lộ rất cao nên chuyện đó là không thể. An ninh quân đội theo sát gia đình tôi từng giờ, nếu vợ con tôi vắng nhà không rõ lý do thì tôi sẽ bị bắt ngay tức khắc. Cũng có thể trên đường ra vùng giải phóng, vợ con tôi cũng sẽ bị bắt, tình thế đó sẽ nghiêm trọng hơn. Rất lo lắng cho tính mạng vợ con, nhưng việc mà tôi đã tính trước 10 năm đến thời điểm này là không thể dừng. Mặt khác, thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài Gòn cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan gì đến công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa tròn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn.

Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán. Cánh an ninh không quân đưa xe đến nhà bắt vợ con tôi. Vợ tôi phản đối vì mình không biết gì về công việc của chồng. Họ từ tốn: “Thưa bà, chúng tôi không bắt bà (nếu bắt chúng tôi đã dùng còng số 8, trói bà chẳng hạn), chúng tôi tới đây mời bà vào phòng an ninh sư đoàn, với trách nhiệm bảo vệ sự an toàn tính mạng của bà và các con bà. Nếu bà có tài sản quý giá nào thì bà cứ mang theo”. Một tuần sau vợ và con tôi bị đưa từ Biên Hoà về số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm - Sài Gòn cho đến ngày 30.4.1975. Đương nhiên, họ vẫn điều tra vợ tôi về những gì liên quan đến tôi, nhưng không bị đối xử vô nhân đạo. Có thể đó là những người có học và biết cách ứng xử một cách văn hoá với người thân của kẻ thù. Trong thời gian vợ tôi bị giam ở số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, trung tướng không quân Trần Văn Minh đến thăm với tư cách người chỉ huy có một người lính phản chiến. Ông ấy hỏi vợ tôi có cần bạn bè, người thân đến chuyện trò gì không hay cần mua sắm gì thì ông sẽ giúp đỡ.

Vậy đó, ngày 2.5.1975, tôi lái máy bay từ Phan Rang về sân bay Biên Hoà. Vợ con tôi cũng vừa được giải thoát khỏi số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi gặp lại nhau trong ngôi nhà nhỏ của mình.

Sau ngày thống nhất đất nước, đối diện với bao khó khăn của cuộc sống thường ngày do nền kinh tế bao cấp áp đặt, những lúc ngột ngạt, mệt mỏi ông nghĩ gì?

Tôi là người được học hành tử tế trong những ngôi trường khá lý tưởng của Sài Gòn và tiếp cận nhiều nguồn tài liệu khác nhau, tôi biết rõ những sai lầm trong chính sách kinh tế của miền Bắc nước ta. Bi kịch cải cách ruộng đất còn nguyên đó, công nghiệp chẳng có gì. Khu gang thép Thái Nguyên còn thô sơ lắm, Dệt Nam Định, Sứ Hải Dương chỉ sản xuất được những mặt hàng tiêu dùng cấp thấp, đặc biệt là hạn chế về trình độ của cán bộ quản lý. Sự khác biệt về ý thức hệ giữa hai miền, nhất là do đặc thù của nền kinh tế tự cung tự cấp, cho tôi nhìn rõ sau khi Việt Nam thống nhất, kinh tế sẽ cực kỳ khó khăn ít nhất là mười năm. Tôi chuẩn bị tinh thần đối phó với những khó khăn chung, và cả những khó khăn về mặt cá nhân, nghi ngờ, hay có những phân biệt đối xử này nọ... Tôi chấp nhận đối diện thực tế đó và nghĩ điều quan trọng nhất mình có được là dân tộc Việt được sống trong hoà bình.

Thực tế mười năm khó khăn như ông nói cũng đã được tháo gỡ bởi bước chuyển đổi mới. Nhưng tới bây giờ, người ta lại tiếp tục đưa ra dự báo mình lại đang hụt hơi, tụt đà. Ông nghĩ thế nào?

Thực ra đổi mới một phần vì khi mình tiếp xúc với thế giới mới ngộ ra một điều là đang bị co trong vòng luẩn quẩn, không tìm ra lối thoát trong khi thế giới ào ào tiến lên. Từ ảnh hưởng đó đồng thời tác động mạnh của cuộc khủng hoảng Đông Âu tới mình và cả Trung Quốc, bắt buộc phải một phần nào đó chấp nhận cách làm ăn mới, có sự tư hữu. Tư hữu của thế giới mình không chấp nhận, nhưng con người có quyền tư hữu từ hàng ngàn năm về trước. Mình luẩn quẩn trong khi thế giới đang tiến lên bởi mình không chấp nhận dân làm giàu. Cho nên bắt buộc mình phải công nhận, phải chấp nhận tư hữu ở một mức độ nào đó để dân thở được. Khi đó dân bắt đầu làm ăn được. Cải cách vì vậy là do dân. Cuộc cách mạng này do dân và do lịch sử thế giới tác động. Nếu muốn không tụt đà thì phải nương vào sức dân, dân giàu thì nước mới mạnh.

Sau ngày 30.4, ông có thường gặp lại đồng nghiệp trong những phi đội cũ? Tình cảnh và và tâm thế lúc gặp lại như thế nào?




Đại tá, anh hùng phi công Nguyễn Thành Trung. Ảnh: Trần Việt Đức

Bẵng mười năm sau giải phóng, tôi không gặp lại ai trong nhóm những đồng nghiệp cũ. Sau đổi mới, từ năm 1986 trở về sau này, các đồng nghiệp cũ của tôi lần lượt về mới có dịp gặp lại. Lớp tôi có 23 đứa, chết hết bốn, 18 đứa qua Mỹ, chỉ còn mình tôi ở lại. Những lần gặp cũng dễ nói chuyện vì họ đã hiểu rõ mọi chuyện. Tôi cũng hoàn toàn hiểu và tôn trọng họ. Đa phần những đồng nghiệp của tôi đều ở Mỹ. Lúc mới về, tâm lý chung mấy người bạn đều ngại gặp tôi. Tôi thì chả ngại gì, tôi vẫn xem họ là những người bạn. Khi gặp cũng tâm sự nhiều, cũng so sánh chuyện cũ, chuyện bây giờ. Ai cũng công nhận việc tôi làm là góp phần chấm dứt cuộc chiến tranh, chấm dứt cảnh chết chóc, đổ máu. Nhưng điều họ chia sẻ là họ không dám có những quyết định như vậy.

Những người bạn lựa chọn khác tôi lúc qua Mỹ còn trẻ nên ai hội nhập được, sống khá giả. Năm nào mấy ổng cũng ngồi lại với nhau, chuyện nói nhiều nhất là về tôi. Nhiều anh em bảo quyết định của tôi hơi dại dột, vì sau giải phóng sống kiểu gì cũng bị nghi ngờ, đói khổ… Tôi trả lời đó không phải là quyết định bậy bởi tôi ý thức được việc cần làm. Cái gì cũng vậy, làm thì phải trả giá nhưng tôi chấp nhận việc đó. Nhưng qua những thăng trầm của đất nước, nhiều kinh nghiệm cuộc đời đúc kết lại, tôi thấy việc tôi làm càng ngày càng đúng. Còn hỏi tôi có lăn tăn hay không, tôi trả lời thật là thánh mới không lăn tăn, nhưng những cái lớn nhất át những lăn tăn nhỏ đi, nên hàng đêm tôi ngủ yên vì biết tôi đang ngủ trên đất nước mình, chứ qua Mỹ sướng thật nhưng ngủ không yên bởi lúc nào cũng đau đáu một quê hương chỉ còn trong ký ức. Nhiều đứa bạn nói thẳng: “Đến bây giờ mới nghe được một người nói điều đó là mày”. Chúng tôi gặp nhau trao đổi thẳng thắn, không giấu giếm điều gì, nói đến tận cùng suy nghĩ của mỗi người.

Với ông, quê hương là thế nào?

Tôi có tới hai quê hương. Một Bến Tre nơi tôi sinh ra, nơi đó là dòng tộc máu mủ, nơi đó cha mẹ tôi đã nằm xuống cho chúng tôi trưởng thành. Vốn là xứ học, địa linh nhân kiệt, nhiều tên tuổi trí thức lớn Việt Nam xuất phát từ đây. Những Phan Thanh Giản, Võ Trường Toản, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Đình Chiểu… là những tấm gương của nhân – nghĩa – lễ – trí – tín mà tôi từng học được.

Còn một quê hương khác, Sài Gòn đối với tôi là máu thịt, là tình yêu, là gì đó không thể lay chuyển được dù cho năm tháng trôi qua, nhìn góc phố thay đổi, cũng nhiều lúc buồn vui hờn giận, tiếc nuối…

Ông từng thổ lộ về một người bạn rất thân, giữa ông với người đó hình như có một món nợ ân tình đến nay vẫn còn đau đáu?

Người bạn ấy đến giờ sau 38 năm vẫn chưa gặp lại mặc dù tôi nghe tin ảnh có quay về. Ảnh cùng ở phi đoàn phản lực không quân Sài Gòn với tôi nhưng không phải cùng lớp. Anh ấy là một người đặc biệt. Khi đó, lãnh đạo báo cho tôi biết có một cán bộ nội tuyến trong lực lượng pháo binh bị bắt khai có một phi công quê Bến Tre là nội tuyến của Việt cộng. Tôi nhẩm tính trong không quân có độ chục người gốc gác Bến Tre, riêng phi đoàn phản lực thì có tôi và người bạn mà tôi kể ở trên, người cùng xã, cùng học trường tiểu học nhưng trên tôi hai lớp. Khi thông tin bị lộ như thế thì tất cả những người gốc Bến Tre đều bị triệu tập điều tra. Anh bạn tôi bị ngưng bay, an ninh không quân gọi lên làm việc liên tục. Anh ấy không biết có chuyện gì, nhưng tôi thì biết rõ nguyên nhân. Tuy lý lịch anh ấy không có vấn đề gì nhưng anh có người chị học đại học sư phạm từng tham gia biểu tình chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Lúc đó, tôi cũng như ngồi trên lửa, nhiều chuyện không thể tâm sự, chia sẻ với ai được. Khoảng một tuần sau, tôi gặp ảnh và tôi nghĩ ảnh biết rõ về tôi, từ gia đình đến công việc của tôi. Ảnh nói: “Riêng mày thì tao “ba không”, ai hỏi tao về mày tao cũng không biết, không nghe, không thấy”. Khi nghe câu đó, tôi nhập tâm đến giờ, tới chết tôi sẽ mang theo lời nói và hình ảnh của anh ấy.

Tôi ngẫm nghĩ ở đời có nhiều người cực xấu nhưng cũng có nhiều người cực tốt. Cái tốt - xấu đó mong manh lắm, nhưng người ta không cần xác nhận. Là bạn thân nên anh ấy bảo vệ chứ không phải vì tôi là Việt cộng hay cán bộ mà anh ấy ứng xử như vậy. Trong thâm tâm tôi nhiều lần muốn gặp lại anh ấy, nhưng để làm gì, nói một lời cảm ơn liệu có ý nghĩa gì? Tôi động viên mình có lẽ trong tình cảnh ấy đến giờ chỉ cần hai tâm hồn bạn bè hiểu nhau là đủ. Tôi nguyện cho tới chết tôi sẽ mang điều ấy theo.

Ông đã bước ra khỏi vỏ bọc của một điệp viên, lái máy bay trên bầu trời hoà bình, và làm công việc đào tạo, hết lòng với một thế hệ phi công trẻ Việt Nam. Điều đọng lại trong ông sau thời gian dài gắn bó với công việc đào tạo, huấn luyện ấy là gì?

Giã từ cuộc chiến, tôi thấy mình làm khá nhiều việc mà những việc đó chắc không phải ai cũng làm được. Hồi còn sống, anh Hai Trung (tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn) nói nửa đùa nửa thật: “Việc ông ném bom dinh Độc Lập, Nhà nước phong ông anh hùng thì tôi không nói làm gì, còn công việc ông làm sau này nếu được, tôi phong ông hai lần anh hùng nữa”. Anh Hai Trung hiểu về công việc đặc thù của tôi. Khi giải phóng, cả một bề thế không quân chế độ cũ bỏ lại, tôi là người làm sống lại phi đội A37 sau này tham gia đánh Tân Sơn Nhất vào ngày 28.4 trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. F5 là máy bay chiến đấu hiện đại nhất của Sài Gòn lúc bấy giờ mà Mỹ bỏ lại mấy phi đoàn nhưng không có người bay. Giá trị vậy nhưng bỏ lại quá lâu bị hư hại nhiều, có chiếc bị bắn phá thủng lỗ chỗ. Nhiều chiếc còn bị bộ đội tiếp quản tháo đi những tiện nghi nội thất hay linh kiện quan trọng… Sau khi thành lập bộ phận tiếp quản, tôi nhận nhiệm vụ làm sống lại những chiếc máy bay này. Khi sửa xong, tôi là người bay thử. Phi công bay thử của người ta điều kiện bảo hiểm ngặt nghèo lắm, còn tôi thì như con thiêu thân. Gần 50 lần bay như thế, tôi luôn sẵn sàng tình huống nhảy dù khẩn cấp bởi máy bay có thể hư bất cứ lúc nào. Mỗi lần bay, nhiên liệu chỉ cung cấp đủ phân nửa cơ số. Vốn là người nhạy cảm trong cuộc sống, con ruồi bay qua tôi phân biệt ruồi đực hay ruồi cái, huống chi chuyện nhiên liệu chỉ đủ bay một vòng trong bán kính hẹp. Điều lăn tăn mà tôi kể trên là như vậy đó.

Tháng 8.1975 sau khi hồi phục xong rồi, tôi huấn luyện cả một phi đội, bay thành thục F5 để thành lập trung đoàn không quân 935, sau này trở thành trung đoàn anh hùng.

Đã quá cái tuổi lục thập nhi nhĩ thuận, còn điều gì ông thấy hối tiếc, hoặc món nợ nào ông chưa trả được?

Đến giờ này tôi vẫn ân hận, tiếc là không được chết vì Hoàng Sa. Ngày 18.1.1974, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo Hoàng Sa, phía Việt Nam Cộng hoà khi đó có một đại đội địa phương quân chốt trên đảo Phú Lâm. Hai bên đánh nhau, cùng có thương vong về con người nhưng quân số Trung Quốc đông quá, 51 lính địa phương quân của ta bị bắt đưa về Trung Quốc. Việt Nam Cộng hoà lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự để chiếm đảo của Việt Nam một cách phi pháp. Đây là sự kiện lớn, dư luận thế giới cũng phản đối việc đó.

Lúc này hải quân của Việt Nam Cộng hoà không thể đổ bộ chiếm lại đảo được. Ngày 19.1.1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều năm phi đoàn F5, bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi phi đoàn có 24 máy bay và 120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng Sa. Mọi người rất phấn khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần lãnh thổ đất nước. Sĩ quan cấp tá ở các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng, 536 – Đàm Thượng Vũ, 540 – Nguyễn Văn Thanh, 544 – Đặng Văn Quang, 538 – Nguyễn Văn Giàu đều đã lên kế hoạch tác chiến kỹ lưỡng.

 150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5 của không lực Việt Nam Cộng hoà khi đó đều ký tên chung vào một lá đơn tình nguyện “Xin được chết vì Hoàng Sa”.

Hàng ngày, máy bay RF5 có nhiệm vụ bay và chụp ảnh các toạ độ từ nhỏ nhất ở Hoàng Sa, xem có thay đổi gì, tàu chiến Trung Quốc di chuyển ra sao, bố trí các cụm phòng thủ thế nào… đưa về chiếu ra cho tất cả phi công theo dõi. Tụi tôi đếm từng tàu một, thậm chí đếm được cả số ghi trên tàu, chia bản đồ ra làm bốn, mỗi góc tư giao cho một phi đoàn, phi đoàn thứ năm bay bảo vệ trên không. Họ có 43 tàu tất cả và quyết tâm của tụi tôi là đánh chìm tất cả 43 tàu đó trong vài giờ.

Về không quân, vào thời điểm đó chúng tôi có nhiều lợi thế hơn Trung Quốc. Bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa bằng cự ly từ đảo Hải Nam ra. Ưu thế của phi đội tụi tôi là máy bay bay ra, đánh nửa tiếng vẫn thừa dầu bay về còn Trung Quốc chỉ có Mig 21, bay ra đến Hoàng Sa thì không đủ dầu bay về. Khí thế phi công lúc đó hừng hực, mấy anh chỉ huy trưởng từ đại tá trở xuống đòi đi đánh trước. Tất cả háo hức chờ đến giờ G là xuất kích. Nhưng giờ G ấy đã không đến. Hạm đội 7 của Mỹ trên biển không cứu các hạm đội của đồng minh Việt Nam Cộng hoà bị bắn chìm và bị thương trên đảo. Dường như vì lợi ích của mình, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác.

Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc mình, cha ông ta đã đắp xây nên bờ cõi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ lấy. Tụi tôi háo hức sẵn sàng tất cả nhưng cuối cùng không được chết cho Hoàng Sa. Tới bây giờ tôi vẫn ân hận. Sau này bạn bè tôi gặp lại nhau cũng cùng một tâm trạng: đáng lẽ tụi mình chết cho Hoàng Sa thì vinh dự hơn!

Là người đi nhiều nơi, có điều kiện tiếp cận với chuyện làm ăn, ông thấy phẩm chất, tư cách của người Việt Nam có đứng được ở những thị trường minh bạch?

Cũng tuỳ người. Thí dụ như thị trường Lào, nhiều nhà đầu tư của mình không dám qua đó nữa bởi vì làm kiểu nói dóc, hứa nhiều nhưng làm chẳng bao nhiêu. Họ nói thẳng là mấy ổng đó qua họ không tiếp. Cách làm ăn của người Việt mình cũng có nhiều cái người ta không chấp nhận, chỉ chụp giật, bốc hốt ở đây thôi chứ ra ngoài người ta không chấp nhận.

Hiện nay ông có bằng lòng với cuộc sống của mình?

Thời nào tôi cũng bằng lòng với hiện tại. Thời khó khăn nhất cũng như khi đất nước đổi mới đến nay, tôi bằng lòng với những cái mình hiện có. Đó là hạnh phúc tự tạo. Nếu để làm giàu tôi sẽ đi đường khác và tôi biết cách làm giàu, nhưng tôi đã không lựa chọn như vậy. Tôi vẫn nghĩ “tri túc tiện túc hà thời túc”, mình biết đủ thì lúc nào cũng đủ, còn ham muốn, lúc nào cũng thấy thiếu thì không bao giờ đủ cả. Tôi bằng lòng với cuộc sống con cái học hành đàng hoàng, lễ phép với cha mẹ. Hiện tôi vẫn chưa nhàn được, tôi vẫn đi làm thuê, nhưng làm để vui, chứ làm để buồn thì tôi không bao giờ làm.

Để giải toả những mệt mỏi trong công việc, ông có chơi thú giải trí gì khác?

Tôi cũng thích nhiều nhưng tự thấy mình không có điều kiện, chẳng hạn như đánh golf , làm sao đủ sức, đủ tiền mà vác cái gậy mấy chục ngàn đô. Đối với tôi bây giờ sức khoẻ là trên hết, liệu sức để làm việc thôi. Tôi sống trên không nhiều quá rồi, giờ ngồi dưới đất thú thực là thấy tay chân tù túng, bay một tí cho vui nên đến nay tôi vẫn bay đều.

Cảm ơn về cuộc trò chuyện chân tình và thẳng thắn của ông.

Thực hiện: Trung Dũng – Minh Nguyễn

Anh hùng Nguyễn Thành Trung tên thật Đinh Khắc Chung, sinh ngày 9.10.1947 tại xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Năm 1965, ông được ban Binh vận T2 (khu 8) đưa lên Sài Gòn với một bản lý lịch thay đổi bằng tên mới là Nguyễn Thành Trung. Năm 1969, sau khi được kết nạp Đảng, ông được bố trí vào cơ sở nội tuyến trong lực lượng không quân Sài Gòn. Được sự chỉ đạo trực tiếp bí mật của cơ sở nội tuyến, ông có nhiệm vụ phải ẩn mình chờ giờ G ném bom dinh Độc Lập.
Ông hiện là đại tá không quân Việt Nam, được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang ngày 20.12.1994.

------
--> Read more..

Steps


Flag Counter