Phát biểu của Tổng Bí thư bế mạc Hội nghị TƯ 6
Nguồn: vietnamnet.vn
Kichbu posted on 15.10.2012
Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng bế mạc Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng chiều 15/10.
VietNamNet
trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu:
“Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
“Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Sau 15 ngày làm
việc khẩn trương, nghiêm túc, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương đã
hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra theo đúng kế hoạch. Các đồng chí
Uỷ viên Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị đã thể hiện tinh thần trách
nhiệm cao, phát huy dân chủ, trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ý
kiến tâm huyết, sâu sắc vào các tờ trình, báo cáo, đề án. Bộ Chính trị đã tiếp
thu tối đa và giải trình những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; Ban Chấp hành
Trung ương đã thống nhất thông qua một số Nghị quyết và Kết luận của Hội nghị. Trước
khi bế mạc Hội nghị, thay mặt Bộ Chính trị, tôi xin phát biểu, làm rõ thêm một
số vấn đề và khái quát lại những kết quả quan trọng đã đạt được.
1- Về tình hình
kinh tế - xã hội năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2013
Hội nghị đã thống
nhất nhận định: Trong bối cảnh tình hình có nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế
- xã hội 9 tháng đầu năm có những chuyển biến nhất định. Kinh tế vĩ mô ổn định
hơn; lạm phát được kiềm chế, chỉ số giá tiêu dùng giảm; thanh khoản của hệ
thống ngân hàng được cải thiện; tỉ giá cơ bản ổn định, niềm tin vào giá trị
tiền đồng Việt Nam
được củng cố. Sản xuất công nghiệp có dấu hiệu phục hồi; sản xuất nông nghiệp
tiếp tục phát triển ổn định; du lịch, dịch vụ tăng khá. Các đề án tái cấu trúc
nền kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược được chú trọng xây dựng và bước đầu
triển khai thực hiện. An sinh xã hội và phúc lợi xã hội cơ bản được bảo đảm.
Lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có bước tiến bộ. Quốc
phòng, an ninh được tăng cường; chính trị - xã hội ổn định.
Tuy nhiên, áp lực
lạm phát và bất ổn vĩ mô vẫn còn lớn. Thị trường tiền tệ diễn biến phức tạp; nợ
xấu ngân hàng ở mức cao; tăng trưởng tín dụng thấp; hoạt động của một số ngân
hàng thương mại cổ phần thiếu minh bạch, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; lãi suất
ngân hàng vẫn còn quá cao so với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán vẫn chưa được cải
thiện; thị trường vàng còn nhiều biến động. Các đề án tái cấu trúc đầu tư công,
doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại còn có nhiều vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu, hoàn thiện. Tăng trưởng GDP và tổng vốn đầu tư xã hội không đạt được
kế hoạch đề ra; số doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoặc thu hẹp hoạt động vẫn
ở mức cao; việc làm và thu nhập của người lao động khó khăn. Trật tự, an toàn
xã hội và các tệ nạn xã hội, tội phạm, tham nhũng, tiêu cực còn nhiều phức tạp…
Dự báo thời gian
tới, kinh tế thế giới nói riêng và tình hình quốc tế nói chung còn nhiều diễn
biến khó lường. Vì vậy, trong những tháng còn lại của năm 2012 và năm 2013, đòi
hỏi phải tiếp tục tăng cường lành mạnh hoá, ổn định kinh tế vĩ mô; đặc biệt chú
trọng ổn định, lành mạnh hoá, bảo đảm an toàn của hệ thống tài chính - ngân
hàng; thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu
công. Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; tập trung giải quyết tình trạng
nợ xấu, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; khuyến khích đầu tư trong nước và
đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài; ưu tiên đầu tư phát triển nông nghiệp và du
lịch. Đồng thời đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; bảo đảm ổn định chính trị - xã hội; tạo
nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo. Quá trình tái cấu
trúc đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt là hệ thống ngân hàng
thương mại cần phải được đặt trong tổng thể và gắn kết chặt chẽ với quá trình
cơ cấu lại nền kinh tế, tái cấu trúc đầu tư và tái cấu trúc thị trường tài
chính nói chung.
2- Về tiếp tục sắp
xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
Trung ương tiếp
tục khẳng định vai trò nòng cốt và những kết quả quan trọng đã đạt được của
doanh nghiệp nhà nước, đồng thời chỉ ra những hạn chế, yếu kém còn tồn tại;
trên cơ sở đó đề ra chủ trương, chính sách, biện pháp khắc phục.
Trung ương yêu cầu
phải tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XI và các
nghị quyết, kết luận của Trung ương về vấn đề này phù hợp với bối cảnh nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của nước ta ngày
càng đi vào chiều sâu. Kiên quyết điều chỉnh để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu
hợp lý, đi đầu trong đổi mới, ứng dụng khoa học - công nghệ, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, tập trung vào những khâu, công đoạn
then chốt của bốn lĩnh vực chính, bao gồm: Công nghiệp quốc phòng; công nghiệp
độc quyền tự nhiên; lĩnh vực cung cấp hàng hóa dịch vụ công thiết yếu; và một
số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ cao có sức lan tỏa lớn. Sớm chấm dứt
tình trạng đầu tư dàn trải ngoài ngành và hoàn thành việc thoái vốn nhà nước
tại các doanh nghiệp có dưới 50% vốn nhà nước.
Khẩn trương bổ
sung, hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà
nước phải được tổ chức lại theo mô hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn phù hợp với Luật Doanh nghiệp; áp dụng chế độ quản trị tiên tiến phù
hợp với kinh tế thị trường và thực hiện chế độ kiểm toán, kiểm tra, giám sát
chặt chẽ, công khai, minh bạch trên cơ sở mở rộng diện niêm yết trên thị trường
chứng khoán. Chức năng điều tiết vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội của doanh
nghiệp phải được đổi mới và thay thế bằng cơ chế đặt hàng của Nhà nước, được
hạch toán theo cơ chế thị trường. Các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước
lớn phải được cấu trúc lại theo mô hình công ty mẹ - công ty con; được kiểm
toán hằng năm. Kết thúc giai đoạn thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế nhà
nước; xem xét chuyển một số tập đoàn kinh tế nhà nước thành tổng công ty. Đồng
thời với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, phải
tăng cường vai trò và sự giám sát, kiểm tra của đại diện chủ sở hữu nhà nước,
nhất là trong việc phê duyệt điều lệ, quyết định chiến lược phát triển sản
xuất, kinh doanh, quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.
Tăng cường công
tác xây dựng Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực quản lý của
đội ngũ lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp. Đổi mới quy
trình, xác định rõ quyền và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân có liên quan
đến việc xem xét, quyết định nhân sự lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp nhà
nước, đặc biệt là nhân sự chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc. Nêu cao
vai trò và trách nhiệm của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên và ban thường
vụ đảng ủy; thực hiện việc chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành
viên kiêm bí thư đảng uỷ doanh nghiệp. Mở rộng diện áp dụng chế độ thi tuyển,
hợp đồng có thời hạn tùy thuộc vào kết quả sản xuất, kinh doanh đối với giám
đốc, tổng giám đốc. Nghiên cứu hình thành cơ quan cấp bộ thực hiện thống nhất
chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Trước mắt, tập
trung soát xét, điều chỉnh sự phân cấp, phân công giữa Chính phủ và các bộ,
ngành, chính quyền các địa phương trong việc thực hiện chức năng của cơ quan
đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước cấp trên của hội đồng quản trị, hội
đồng thành viên mà không trực tiếp chỉ đạo hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
3- Về vấn đề đất
đai
Thực hiện Kết luận
Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, tại Hội nghị này, Trung ương tiếp tục thảo luận
và đã nhất trí cao ban hành Nghị quyết của Trung ương để lãnh đạo, chỉ đạo việc
sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, góp
phần huy động và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực đất đai cho phát triển kinh
tế - xã hội . Khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiêu cực trong lĩnh vực đất
đai; đặc biệt là tình trạng đầu cơ , lãng phí, tham nhũng, tranh chấp, khiếu
kiện kéo dài; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và
của nhà đầu tư , góp phần ổn định chính trị - xã hội.
Trung ương tiếp
tục khẳng định: Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt,
nhưng không phải là quyền sở hữu, cần được xác định cụ thể, phù hợp với từng
loại đất, đối tượng sử dụng đất và các trường hợp giao đất, cho thuê đất. Quy
hoạch sử dụng đất phải đồng bộ, liên thông với quy hoạch ngành, lĩnh vực khác
có sử dụng đất ; phải tổng hợp, cân đối, phân bổ hợp lý, hiệu quả đất đai cho
phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ và các đơn vị hành chính trong cả
nước; bảo đảm đất cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng, các dự án có mục đích xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, đất ở, đất sản xuất
cho đồng bào dân tộc thiểu số. Xử lý nghiêm các trường hợp đã được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất nhưng sử dụng không đúng mục đích hoặc chậm đưa đất vào
sử dụng. Quản lý chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất có rừng
phòng hộ, rừng đặc dụng. Thu hẹp đối tượng được giao đất không thu tiền sử dụng
đất; mở rộng việc giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất để thực
hiện các dự án sản xuất, kinh doanh thông qua hình thức đấu thầu dự án hoặc đấu
giá quyền sử dụng đất. Nhà nước chủ động thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch
sử dụng để tạo quỹ đất; trực tiếp thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, giải toả,
đền bù, hỗ trợ tái định cư theo đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục, bảo đảm dân
chủ, công khai, minh bạch và công bằng. Thực hiện giá đất do Nhà nước quy định
phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và với mục đích sử
dụng đất, tình hình kinh tế - xã hội của cả nước, các vùng, miền và địa phương
trong từng thời kỳ. Không để các nhà đầu tư trực tiếp thoả thuận với người sử
dụng đất về giá đền bù, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Chính phủ quy định
phương pháp xác định giá đất và khung giá đất làm căn cứ để Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh xây dựng, ban hành bảng giá đất; bổ sung quy định về điều chỉnh khung giá
đất, bảng giá đất sao cho linh hoạt, phù hợp hơn với từng loại đất, các đối tượng
sử dụng đất và các trường hợp giao đất.
Ban Chấp hành
Trung ương giao cho Bộ Chính trị chỉ đạo khẩn trương tổng kết, đánh giá tình
hình sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh theo Nghị quyết
số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá IX, trong đó có đánh giá việc quản lý, sử
dụng đất nông, lâm trường để có chính sách, biện pháp quản lý phù hợp. Có cơ
chế, chính sách đặc thù về việc giao đất, chuyển quyền sử dụng đất ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
4- Về giáo dục và
đào tạo
Ban Chấp hành
Trung ương đã thảo luận sôi nổi và cho nhiều ý kiến về Đề án "Đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế". Trung ương nhận thấy, sau 16 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương
2 khoá VIII, trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nguồn lực có hạn, với
sự cố gắng, nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là của đội ngũ nhà giáo,
sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta đã thu được những kết quả, thành tựu
rất có ý nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và
bồi dưỡng nhân tài. Tuy nhiên, đến nay giáo dục và đào tạo nước ta vẫn chưa
thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, động lực quan trọng nhất cho phát triển;
thậm chí còn không ít hạn chế, yếu kém, nhất là về chất lượng giáo dục - đào
tạo; công tác quản lý và cơ chế tạo nguồn lực và động lực cho phát triển. Để có
thể cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020,
nước ta đang đứng trước yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh dựa nhiều hơn
vào yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) và kinh tế tri thức. Sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại toàn cầu hoá, phát triển nhanh
chóng của khoa học - công nghệ đòi hỏi và cũng tạo điều kiện để nước ta đẩy
mạnh toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Những kết quả, thành tựu đã đạt được về
quy mô, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có cũng cho phép chúng
ta chuyển sang giai đoạn phát triển mới, cao hơn về chất. Đó chính là lý do
giải thích vì sao Đại hội XI của Đảng đề ra chủ trương phải đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục và đào tạo.
Trung ương yêu cầu
phải đổi mới từ nhận thức tư duy, mục tiêu đào tạo, hệ thống tổ chức, loại hình
giáo dục và đào tạo, nội dung và phương pháp dạy và học đến cơ chế vận hành, cơ
chế quản lý, xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý, cơ sở vật chất, nguồn
lực, điều kiện bảo đảm thực hiện đổi mới toàn bộ hệ thống giáo dục, bao gồm
giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục đại học, đào tạo nghề . Đây là
những vấn đề hết sức lớn lao, hệ trọng và phức tạp, còn nhiều ý kiến khác nhau,
cần phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, bàn bạc một cách thấu đáo, cẩn trọng,
tạo sự thống nhất cao để ban hành Nghị quyết vào thời gian thích hợp. Trước
mắt, cần tiếp tục quán triệt các quan điểm, chủ trương của Nghị quyết Trung
ương 2 khoá VIII, Kết luận Hội nghị Trung ương 6 khoá IX và các kết luận, quyết
định của Bộ Chính trị, chỉ đạo triển khai thực hiện thật tốt Chiến lược phát
triển giáo dục và đào tạo từ nay đến năm 2020 theo Kết luận của Hội nghị lần này.
5- Về phát triển
khoa học và công nghệ
Ban Chấp hành
Trung ương tiếp tục khẳng định, phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là một động lực quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Nhân lực khoa học và công nghệ là tài nguyên vô giá của đất nước; trí thức
khoa học và công nghệ là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế
tri thức. Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ, đãi ngộ người tài là đầu
tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc.
Đảng và Nhà nước có trách nhiệm và chính sách đặc biệt phát triển, trọng dụng
và phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ để khoa
học và công nghệ thực sự là động lực then chốt, là lực lượng sản xuất trực tiếp,
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020
và là nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế
kỷ 21.
Sự lãnh đạo của
Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước, sự tham gia chủ động, tích cực của mọi lực
lượng xã hội và tài năng, tâm huyết của các nhà khoa học đóng vai trò quyết
định thành công của sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ nước nhà. Ưu
tiên và tập trung mọi nguồn lực cho phát triển khoa học và công nghệ. Nhà nước
có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế
tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học xã hội và nhân
văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng và
triển khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của đổi mới,
ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất của thị trường
khoa học và công nghệ.
Trung ương yêu cầu
phải đổi mới, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng và chính quyền về vai trò
của khoa học và công nghệ, coi phát huy ứng dụng và phát triển khoa học - công
nghệ là một bộ phận không thể thiếu của quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và
địa phương. Nhà nước có chính sách, cơ chế đặc biệt trọng dụng và đãi ngộ đối
với cán bộ khoa học đầu ngành; cán bộ được giao chủ trì nhiệm vụ quốc gia; cán
bộ trẻ tài năng. Khuyến khích, tạo điều kiện để sinh viên, nghiên cứu sinh sau khi
được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc. Đồng thời, phải vận dụng đúng đắn
cơ chế thị trường để đổi mới, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước; cơ
chế, chính sách; xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ lớn
của Nhà nước. Tăng cường và phát huy tiềm lực khoa học quốc gia; phát triển thị
trường khoa học và công nghệ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thu hút
nguồn lực và chuyên gia người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài
tham gia các dự án khoa học - công nghệ của Việt Nam… Trong đó, đổi mới công
tác quản lý nhà nước, đổi mới tổ chức, hoạt động và cơ chế, chính sách là khâu
đột phá. Tập trung ưu tiên tháo gỡ các vướng mắc trong công tác kế hoạch, đầu
tư, tài chính, đặc biệt là cơ chế cấp phát, thanh quyết toán kinh phí cho các
hoạt động khoa học và công nghệ.
6- Về xây dựng quy
hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh
đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước
Đây là lần đầu
tiên Trung ương bàn và ra Nghị quyết về vấn đề này. Trung ương nhấn mạnh, việc
xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ
chính trị, nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chủ động và sớm phát hiện cán bộ có triển vọng
lãnh đạo, quản lý trưởng thành từ thực tiễn; chú trọng cán bộ xuất thân từ công
nhân, nông dân, trí thức; tăng tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc
thiểu số, con em gia đình có công với cách mạng, cán bộ khoa học - công nghệ,
văn hoá, nghệ thuật... Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch phải đặt dưới sự lãnh
đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công tâm, minh bạch, khách quan; lấy
quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh
lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước làm cơ sở cho công tác nhân sự Ban Chấp
hành Trung ương tại Đại hội Đảng toàn quốc.
Về phương châm,
cần thực hiện quy hoạch "động" và "mở", định kỳ rà soát,
đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không còn đủ tiêu chuẩn, điều kiện; bổ sung
vào quy hoạch những nhân tố mới. Chuẩn bị nguồn quy hoạch dồi dào, mỗi chức
danh có thể quy hoạch vài ba người, một người có thể quy hoạch vào vài ba chức
danh. Lấy quy hoạch lãnh đạo chủ chốt ở các cấp làm cơ sở cho quy hoạch cấp
chiến lược. Lấy quy hoạch cấp chiến lược thúc đẩy quy hoạch chủ chốt cấp dưới.
Tạo điều kiện công bằng và cơ chế đặc thù để cán bộ trong quy hoạch cấp chiến
lược thể hiện năng lực, phấn đấu, cống hiến và trưởng thành. Coi công tác quy
hoạch cán bộ cấp chiến lược là công việc thường xuyên, bình thường trong công
tác cán bộ của Đảng.
Nhân sự đưa vào
quy hoạch phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện. Ban Chấp hành Trung ương phải có 3
độ tuổi để bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển; có cơ cấu hợp lý để
bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện. Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương phải là cán bộ
tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực công
tác, có uy tín cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đang đảm nhiệm. Uỷ viên Bộ
Chính trị, Ban Bí thư phải là Uỷ viên Trung ương có phẩm chất, năng lực tiêu
biểu, uy tín cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; có tầm nhìn và tư duy chiến
lược, quyết đoán, nhanh nhạy nắm bắt tình hình trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành;
dự báo và đề ra được phương án giải quyết các tình huống hệ trọng của Đảng, của
đất nước; có tư duy và trình độ cao về lý luận chính trị; phát hiện và sử dụng
người tài; đã kinh qua các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, thành phố hoặc
ban, bộ, ngành trực thuộc Trung ương. Các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng
và Nhà nước phải là những Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiêu biểu về phẩm
chất, năng lực, uy tín và có khả năng quy tụ, đoàn kết, thuyết phục trong toàn
Đảng; am hiểu tương đối toàn diện về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại…
7- Về Báo cáo kết
quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của Bộ Chính trị, Ban Bí thư
Ban Chấp hành
Trung ương đã dành gần một phần ba thời gian của Hội nghị để nghe báo cáo,
nghiên cứu và cho ý kiến về nội dung rất quan trọng này. Trung ương đánh giá
cao sự chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm hết sức nghiêm túc, trách nhiệm và sự
gương mẫu của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Sau hơn 2 tháng chuẩn bị, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư đã dành 21 ngày, chia làm 4 đợt (trong 3 tháng) để kiểm điểm tự phê
bình và phê bình, coi đây là đợt sinh hoạt chính trị đặc biệt quan trọng vì sự
trong sạch, vững mạnh của Đảng; của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư. Từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã quán triệt sâu sắc tư tưởng
chỉ đạo là giữ đúng nguyên tắc, có tình đoàn kết, thương yêu đồng chí; vừa có
lý, có tình, vừa phải xử lý nghiêm minh những trường hợp có khuyết điểm, vi
phạm, theo phương châm "trị bệnh cứu người", giúp nhau cùng tiến bộ .
Nội dung kiểm điểm đã bám sát vào các nội dung, yêu cầu của Nghị quyết Trung
ương 4. Các vấn đề nổi cộm, bức xúc đều được đặt ra, phân tích, mổ xẻ và rút ra
những bài học sâu sắc. Không khí thảo luận, góp ý, tự phê bình và phê bình dân
chủ, thẳng thắn, xây dựng , chân thành.
Qua kiểm điểm tự
phê bình, phê bình và lắng nghe ý kiến góp ý của cán bộ, đảng viên, nhân dân,
tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và từng đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí
thư đã nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những ưu điểm và nhất là khuyết điểm
của mình; phân tích, làm rõ nguyên nhân của các khuyết điểm, hạn chế, từ đó đề
ra các biện pháp sửa chữa, khắc phục. Các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều
hết sức thấm thía, day dứt trước những thiếu sót, khuyết điểm, tự nhận thấy
phải nghiêm khắc với mình hơn, không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao trình
độ hiểu biết, đổi mới lề lối làm việc; gương mẫu giữ gìn đạo đức, lối sống;
đoàn kết, gắn bó hơn trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hoàn thành tốt chức trách,
nhiệm vụ được giao. Và trên thực tế, nhiều đồng chí đã tự giác xem xét, nhìn
lại mình, bước đầu có tự sửa chữa khuyết điểm, tự điều chỉnh một số hành vi
trong công tác và cuộc sống hằng ngày của mình, của gia đình, vợ con và người
thân. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã bàn và chỉ đạo giải quyết ngay một số vấn đề
nổi cộm, bức xúc; phát huy các nhân tố tích cực, xiết lại kỷ luật, kỷ cương, có
tác dụng cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn các hành vi tiêu cực. Cũng
qua việc kiểm điểm lần này, các Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư có điều kiện hiểu
biết nhau hơn, chia sẻ, học hỏi lẫn nhau, đoàn kết, gắn bó hơn. Quá trình chuẩn
bị và tiến hành kiểm điểm cũng đã có tác động lan toả, nêu gương cho cấp dưới học
tập và làm theo, góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân
đối với Đảng.
Ban Chấp hành
Trung ương khẳng định, Bộ Chính trị, Ban Bí thư là một tập thể lãnh đạo đoàn
kết, vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng; kiên định
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ chế
độ, bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Nhìn chung, các đồng chí Bộ
Chính trị, Ban Bí thư luôn có ý thức giữ gìn đạo đức cách mạng, lối sống lành
mạnh, giản dị, khiêm tốn; nêu cao trách nhiệm vì sự nghiệp của Đảng, của dân
tộc. Trước tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó
lường, Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, bám sát
các quan điểm, đường lối nêu trong Cương lĩnh, Chiến lược, Nghị quyết Đại hội
toàn quốc của Đảng và tình hình thực tiễn, quyết định nhiều chủ trương, quyết
sách đúng đắn, sáng suốt; lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vượt qua khó
khăn, thách thức, đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về đối nội và đối
ngoại.
Tuy nhiên, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư từ nhiều khoá nay có một số khuyết điểm lớn, đặc biệt là
chưa ngăn chặn và khắc phục được tình trạng tham nhũng, tiêu cực trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên. Việc một số cán bộ cao cấp (cả đương chức và nguyên
chức) có lúc, có việc còn biểu hiện chưa gương mẫu về đạo đức, lối sống của bản
thân và gia đình, nói không đi đôi với làm, đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của
các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bản thân các đồng chí đó. Chưa tập trung
chỉ đạo làm rõ, đánh giá đầy đủ thực chất tình hình để kịp thời có biện pháp kiên
quyết khắc phục một số tiêu cực (như chạy chức, chạy quyền, chạy tội...) và một
số trường hợp phân công, đề bạt cán bộ chưa chính xác, chưa được dư luận đồng
tình. Trong việc chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết và kết luận của Trung
ương, nhất là về doanh nghiệp nhà nước, còn lúng túng, buông lỏng; kiểm tra,
giám sát không chặt chẽ, dẫn đến một số tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty
nhà nước (điển hình là Vinashin, Vinalines) hoạt động kém hiệu quả, có nhiều
sai phạm, gây tổn thất lớn, để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng. Một số hạn
chế, khuyết điểm, chưa được làm rõ thực chất, mức độ, địa chỉ cụ thể, ai phải
chịu trách nhiệm, như tình trạng chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm…
Bộ Chính trị, Ban
Bí thư đã nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận lỗi trước Ban Chấp hành
Trung ương về những yếu kém, tồn tại trong công tác xây dựng Đảng, những suy
thoái, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên như Nghị quyết Trung ương 4 đã
nêu. Mặc dù nhiều khuyết điểm, hạn chế có từ các khoá trước, nhưng với trách
nhiệm chính trị của cơ quan lãnh đạo hiện nay, Bộ Chính trị và từng Uỷ viên Bộ
Chính trị tự nhận thấy sâu sắc trách nhiệm chính trị của mình trước những
khuyết điểm, hạn chế đó. Và để giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng, góp phần giữ gìn
uy tín, hình ảnh thiêng liêng của Đảng và làm gương trong toàn Đảng, Bộ Chính trị
đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức
kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị.
Ban Chấp hành
Trung ương hoan nghênh, đánh giá rất cao sự nghiêm túc, gương mẫu và cầu thị
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình đợt này
cũng như sự quyết tâm, nỗ lực lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4; nhất trí cao với Báo cáo của Bộ Chính trị, đồng
thời đóng góp nhiều ý kiến phê bình rất thẳng thắn, sâu sắc. Kinh nghiệm lịch
sử Đảng ta cho thấy, một khi Đảng tự nhận ra sai lầm, khuyết điểm và tự nghiêm
khắc, quyết tâm khắc phục, sửa chữa thì sức mạnh của Đảng càng được nâng lên; nhân
dân càng tin yêu và ủng hộ Đảng. Trong bối cảnh đầy khó khăn, thách thức hiện
nay, điều đó càng hết sức cần thiết. Đó cũng chính là một bài học sâu sắc, một
nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự vững mạnh của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính
trị và sự phát triển bền vững của đất nước . Về việc đề nghị xem xét kỷ luật,
Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời
điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ
Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện
pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch
xuyên tạc, chống phá.
Ban Chấp hành
Trung ương cũng tự kiểm điểm và nhận phần trách nhiệm của mình trong việc để
xảy ra và chưa ngăn chặn được những khuyết điểm, yếu kém trong thời gian qua.
Ban Chấp hành Trung ương xin nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận lỗi
trước toàn Đảng, toàn dân, và sẽ cố gắng làm hết sức mình để từng bước khắc
phục. Ban Chấp hành Trung ương yêu cầu, lúc này, hơn lúc nào hết, chúng ta càng
phải nêu cao trách nhiệm trước Đảng, trước dân, xiết chặt đội ngũ, tăng cường
đoàn kết, thống nhất, giữ vững niềm tin, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân vượt qua
mọi khó khăn, thách thức, phát huy những kết quả bước đầu quan trọng của việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4, tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục những
hạn chế, yếu kém, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, thật sự là
đảng cách mạng chân chính, gắn bó máu thịt với nhân dân, động viên toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng,
phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XI của Đảng đã đề ra .
Nhân dịp này, Ban
Chấp hành Trung ương cũng ghi nhận, biểu dương các cấp uỷ đảng, chính quyền và
toàn hệ thống chính trị đã bước đầu tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị quyết
Trung ương 4 về xây dựng Đảng. Trung ương yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, từ
Trung ương đến cơ sở, từng cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, phải tiếp
tục thực hiện thật tốt việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo đúng tinh
thần của Nghị quyết Trung ương 4, không làm qua loa, hình thức. Càng xuống cấp
dưới, cấp cơ sở càng phải được chỉ đạo chặt chẽ, hết sức tránh tư tưởng đại khái,
"làm chiếu lệ", "làm cho xong"; đặc biệt phải có những việc
làm thật cụ thể, thiết thực, tạo chuyển biến rõ rệt trong thực tế để mỗi tổ chức
mạnh hơn, mỗi cá nhân tiến bộ, gương mẫu hơn, củng cố niềm tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị lần thứ
sáu Ban Chấp hành Trung ương đã thành công tốt đẹp với một khối lượng công việc
rất lớn. Chúng ta đã bàn và nhất trí cao về nhiều chủ trương, chính sách quan
trọng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ và xây dựng Đảng, kể cả việc quyết định thành lập lại Ban Kinh tế Trung
ương; và lần đầu tiên tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn rất thành công
trong không khí dân chủ, thẳng thắn và xây dựng.
Thành công của Hội
nghị, ngoài sự đóng góp tích cực của các đồng chí Trung ương, các cơ quan và
cán bộ tham mưu, giúp việc, còn có phần đóng góp rất quan trọng của cán bộ,
đảng viên và nhân dân trong cả nước, đặc biệt là các đồng chí cán bộ lão thành,
các nhà nghiên cứu, nhà giáo, nhà khoa học, những người luôn luôn quan tâm,
nhiệt tình hưởng ứng và có nhiều ý kiến đóng góp hết sức tâm huyết, trí tuệ cho
công việc chung của Đảng. Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, tôi xin trân trọng
cảm ơn những tình cảm và sự đóng góp vô cùng quý báu đó. Tôi tin tưởng rằng, với
thành công của Hội nghị lần này và sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, trước hết
là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự ủng hộ hưởng ứng của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nhất định chúng ta sẽ tổ chức thực hiện thành
công các Nghị quyết, Kết luận của Hội nghị Trung ương lần này, góp phần thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Tôi xin tuyên bố
bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI. Chúc các
đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc, hoàn thành xuất sắc trọng trách trước Đảng và
nhân dân với niềm tin và khí thế mới.
Xin trân trọng cảm
ơn.
---
Kichbu nhà Xe Đạp có tham dự hội nghị, hoặc lễ bế mạc hội nghị không? :))
Trả lờiXóa