Вьетнамская война на Украине
Valery Panov
Kichbu theo:
stoletie.ru
Chuyến đi thăm gần đây tới Kiev của tư lệnh lục quân Hoa Kỳ tại châu Âu, tướng B. Hodges, có thể được gọi là huy hiệu
Trong thời
gian chuyến thăm, phái đoàn quân sự Mỹ cũng đã đến thăm quân y viện chính, nơi
những người lính bị thương ở "mặt trận phía đông" đang được điều trị.
Tất nhiên, để an ủi người khốn khổ - là một việc tốt, và Ben Hodges (ảnh) đã an ủi họ với tất cả sự hào
phóng đích thực nhất của Mỹ. Ông cám ơn những thương binh trẻ tuổi đã mất tay
và chân "vì công việc của họ", nói rằng có thể (!), Hoa Kỳ sẽ tiếp
nhận họ để điều trị, và tặng thưởng cho một người lính bị thương trẻ tuổi nhất
huy hiệu kỷ niệm của Lục quân Hoa Kỳ tại châu Âu.
Trên mặt sau của huy hiệu chỉ ra rằng người lính được trao bởi chính tư lệnh. Đây là "... vì thành tích
xuất sắc và huấn luyện tốt. Tôi tự hào về bạn và sự phục vụ của bạn"- vị
tướng nước ngoài khen ngợi người lính Ucraina.
Chi tiết này có thể được gọi là bình thường nếu nó xảy ra ở một quân y viện
của Hoa Kỳ, chứ không thể nào là của quân đội của Ucraina có chủ quyền. Đặc
biệt là trong thời điểm khó khăn đối với đất nước.
Cần lưu ý rằng đại diện thường trực của Nga tại Liên Hợp
Quốc Vitaly Churkin đã gắn trực tiếp chuyến đi thăm Kiev của tướng Ben Hodges
với sự gia tăng các hoạt động quân sự tiếp theo của quân đội Ucraina tại
Donbass.
"Sau mỗi chuyến thăm Ucraina của các quan chức cấp cao của Mỹ, chính
quyền Kiev lại gia tăng ccs hành động đối đầu của họ. Và sự leo thang quân sự
hiện nay một cách lạ lùng đã trùng với một chuyến thăm tới Kiev của tư lệnh Lục
quân Hoa Kỳ tại châu Âu", - nhà ngoại giao Nga nói, đáp lại chỉ trích của
đại sứ Hoa Kỳ S. Pauer tại LHQ S nhằm vào Nga. Tuy nhiên, bản chất thật sự chuyến
đi thăm đến Kiev của phái đoàn quân sự Mỹ đã được phơi bày không lâu sau đó và khá
bất ngờ.
Trên một trong những chương trình truyền hình với Vladimir Solovyov, cục
phó Cục thông tin và báo chí của Bộ Ngoại giao Nga Maria Zakharova, đề cập đến chi
tiết này với tướng-"từ bi", đã đặt ra cho những đối biện của mình từ
phe tự do rằng họ có được biết nguồn gốc của những huy hiệu tương tự hay không.
Những người theo chủ nghĩa tự do, kể cả những người nước ngoài, đã phải xấu hỗ thừa
nhận rằng - không. Lúc đó Zakharova, phó tiến sĩ khoa học lịch sử, đã kể cho họ
rằng những huy hiệu như vậy đã xuất hiện trong cuộc chiến tranh Việt Nam và chúng đã được đại diện của tư lệnh quân đội Mỹ
trao cho những binh lính, mà họ "còn chưa chạm đến" chiến công, tức
là chưa đáng để được tăng thưởng phần thưởng, huy chương cao hơn.
Và những người lính quân đội Nam
Việt Nam cũng được tặng thưởng huy hiệu này, những người
đã chiến đấu cho chính phủ thân Mỹ và được nuôi dưỡng nhờ nó,
trên thực tế là của quân đội thuộc địa.
Nói chung, khi xem
xét kỹ sự tương đồng giữa hai
cuộc chiến tranh - Việt
Nam và Ucraina hóa ra là từ lâu cần phải nói đến một loại Việt
Nam hóa Ucraina.
Và hoàn toàn dễ hiểu tại sao tại cuộc giao lưu với sinh viên của Đại học khoáng
sản và tài nguyên quốc gia "Gornyi", khi nói về những bên tham gia
cuộc xung đột nội bộ của Ucraina, tổng thống Nga Vladimir Putin đã đánh giá
quân đội Ucraina chính như sau: "
Thực chất, đây không phải là một quân đội, đó là quân đoàn nước ngoài, trong
trường hợp này, quân đoàn nước ngoài của NATO, mà nó, dĩ nhiên, không theo đuổi
các mục đích lợi ích quốc gia của Ucraina". Và ông giải thích rõ: "Ở
đó có những mục đích khác, và chúng liên quan đến việc đạt được những mục đích
địa chính trị nhằm kiềm chế Nga, và điều này hoàn toàn không trùng hợp với lợi
ích quốc gia của nhân dân Ucraina".
Tôi nhắc lại rằng
cuộc chiến tranh Việt Nam, trước
hết, liên quan đến sự đối trọng của Hoa Kỳ và Liên Xô,
đến mong muốn không thể kìm nén được của Hoa Kỳ là đặt Philippines, Nhật Bản, và các nước khác trong
khu vực dưới sự kiểm soát vũ trang. Sự can thiệp của
Hoa Kỳ vào công việc nội bộ của Việt Nam
bắt đầu ngay trong thời kỳ cuộc Kháng chiến của nhân dân Việt
Nam 1945-1954s chống thực dân Pháp.
Ngay khi hòa bình được xác lập trên bán đảo Đông Dương theo Hiệp định
Geneve 1954, Hoa Kỳ đã bắt đầu tăng tốc kế hoạch của họ xâm nhập vào quốc gia
Đông Nam Á. Họ ngăn cản việc thực hiện các điều khoản quan trọng của Hiệp định
Geneve về Việt Nam, tuyên bố công nhận quốc tế về tính độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, ngăn chặn hiệp thương giữa miền Bắc và miền
Nam, phá hoại cuộc tổng tuyển cử dự kiến vào năm 1956 và thống nhất tiếp theo
của đất nước. Nam Việt Nam đã được đưa
vào "phạm vi bảo hộ" của khối xâm lược SEATO (Tổ chức Hiệp ước phòng
thủ tập thể khu vực Đông Nam Á, 1955-1977s) do Hoa Kỳ thành lập. Bằng Nghị định
thư bổ sung, hiệu lực của Hiệp ước này cũng đã mở rộng sang Lào và Campuchia, bất
chấp các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của họ.
Từ tháng Một năm 1955, Hoa Kỳ, vi phạm Hiệp định Geneva cấm đưa nhân viên
quân sự nước ngoài, vũ khí vào Việt Nam, đã bắt đầu viện trợ quân sự trực tiếp cho chế độ Sài
Gòn, đưa các cố vấn quân sự và chuyên gia vào Nam Việt Nam, tổ chức và trang bị
vũ khí hiện đại cho quân đội Sài Gòn, xây dựng trên lãnh thổ Nam Việt Nam các
căn cứ quân sự của họ. Để đàn áp phong trào giải phóng ở miền Nam Việt Nam và
chia cắt hoàn toàn Việt Nam họ đã vạch ra các kế hoạch đặc biệt của "chiến
tranh đặc biệt", bao gồm cả kế hoạch Staley-Taylor (1961) nhằm "bình định"
Nam Việt Nam trong vòng 18 tháng (chủ yếu dựa vào quân đội của chế độ Sài Gòn).
Tại Ucraina đã hình thành tình hình tương tự. Ngay từ
mùa hè năm ngoái, phó thư ký Hội đồng an ninh LB Nga Yevgeny Lukyanov
nói rằng đường lối chính trị của Kiev
chịu tác động của "cộng đồng tình báo và các cơ quan sức mạnh của Hoa Kỳ".
Chính họ đã vạch ra chiến lược hành động tổng thể của
Ucraina trên tất cả các các lĩnh vực. Lukyanov tin chắc chắn, và với ông không thể không đồng
ý rằng mục tiêu cuối cùng các đại diện "Euromaidan" hiện đang cầm
quyền ở Ucraina là sự mở rộng của NATO sang phía Đông. Trong khi đó bộ trưởng quốc
phòng Valery Geleta trong chương trình truyền hình của "Kênh Năm" của
Ucraina cho biết: "Tôi đã tiếp xúc kín tại hội nghị thượng đỉnh với các bộ
trưởng của các nước hàng đầu thế giới, những người có thể giúp chúng ta, và họ
đã lắng nghe, hiện nay chúng tôi đang chuyển giao vũ khí". Theo lời ông,
"quá trình này đã bắt đầu" và "đây chính là cách thức mà chúng
ta cần phải theo". Ngày 5 tháng Chín Poroshenko trả lời phỏng vấn của BBC
đã nói rằng một số nước thành viên NATO đã hứa sẽ cung cấp vũ khí chính xác cho
Ucraina. Ông không nói rõ chính ai sẽ
cung cấp vũ khí cho Kiev, nhưng hôm nay điều đó không có gì là bí mật: Hoa Kỳ
và một số nước NATO, chứ còn ai vào đây nữa?
Tại CHND Donetsk đã xác định và công bố cho thế
giới những chứng cứ quân đội Ucraina sử dụng vũ khí và thiết bị quân sự của
phương Tây.
Nhưng tổng thư ký NATO J. Stoltenberg không mệt mỏi nói đi nói lại:
"Nga vẫn duy trì khả năng làm mất ổn định tình hình ở Ucraina". Bởi vậy:
"Chúng ta sẽ tiếp tục hỗ trợ đầy đủ cho một Ucraina độc lập, chủ quyền và
ổn định ... Chúng ta sẽ bảo vệ các đồng minh của chúng ta. Vì vậy, chúng ta cần
một NATO mạnh mẽ". Và không một chút xấu hổ, trả lời phỏng vấn của báo
Pháp «Le Figaro», rằng Nga vi phạm các chuẩn mực luật pháp quốc tế, xâm nhập
lãnh thổ của các nước láng giềng, đặc biệt là Ucraina. Đưa ra tuyên bố này, bất
chấp thực tế rằng tham mưu trưởng của Ucraina, tướng Viktor Muzhenko tại cuộc
họp báo với sự tham dự của nhiều tùy viên quân sự của các đại sứ quán nước
ngoài tại Kiev, đã khẳng định rằng không có quân đội thường trực của Nga tại
Donbass.
Đồng thời, tổng thư ký Liên minh Bắc Đại Tây Dương
nói một cách giả dối rằng rằng mục đích của các biện pháp trừng phạt Nga của phương
Tây không phải là làm mất ổn định tình hình kinh tế và chính trị ở Nga (còn gì
khác nữa?), và chứng minh rằng việc vi phạm luật pháp quốc tế không thể không
bị trừng phạt. Dường như không biết rằng luật pháp quốc tế mà các nhà hoạt động phương Tây ưa viện dẫn từ
lâu đã bị họ và những người tiền nhiệm của họ biến thành điều hữu danh vô thực. Các cuộc xâm lược vũ trang của Hoa Kỳ và các nước
NATO khác ở Afghanistan, Iraq, Libya, Syria, các cuộc chiến tranh đẫm máu họ
tiến hành ở đó bằng cách nào đó đã "biến khỏi" trí nhớ của ông. Ông
cũng "quên luôn" những trận ném bom dã man Nam Tư, kết quả là nhà
nước liên bang này không còn tồn tại. Và điều này đã xảy ra ở châu Âu, mà bây
giờ lại tức giận "chính đáng" đối với một nước Nga "hiếu chiến".
Vâng, và, dĩ nhiên, không nhớ bất cứ điều gì, vì theo chức trách ông ta không được
phép nói như thế, "chim bồ câu hòa
bình" chính về Việt Nam. Nhưng nhớ lại sẽ là hữu ích, những so sánh này rõ
ràng ngay cả với Ucraina.
Và bản thân người Ucraina cũng nên biết rằng chính sách
"chiến tranh đặc biệt" của Mỹ ở Việt Nam đã bị thất bại. Quân đội Sài Gòn, được trang bị vũ khí của Mỹ
và do các cố vấn quân
sự Mỹ chỉ huy, đã không có khả năng chống lại những cuộc
tấn công của Quân đội giải phóng Nam Việt Nam, được thành lập vào năm 1961. Trong những
thành phố của miền Nam Việt Nam không ngừng
các cuộc biểu tình chống chính phủ
của công nhân, sinh
viên và trí thức. Các phật tử cũng đã tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh giải phóng.
Mong muốn cứu chế độ
Sài Gòn và duy trì Nam Việt Nam
dưới sự kiểm soát, Hoa Kỳ buộc phải suy
nghĩ lại chiến lược của họ. Nhưng
để bắt đầu những hoạt động quân sự quy mô lớn cần một
cái cớ.
Bất kỳ kẻ xâm lược
nào luôn
luôn tìm được lý do, và nếu không có - tạo ra. Vào tháng Bảy năm
1964, Hoa Kỳ đã điều đến Vịnh Bắc Bộ (Tonkin) các tàu chiến của Hạm đội 7 để tuần tra bờ
biển Bắc Việt Nam. Họ xâm phạm vùng lãnh hải của VNDCCH, kích động các cuộc
đụng độ quân sự. Ngày 2 tháng Tám năm 1964
tại Vịnh Bắc Bộ, hai tàu khu trục Mỹ «Maddox» và «Turner Joy» dường như bị tấn
công bởi quân đội Bắc Việt Nam. Vài ngày sau «Maddox» thông báo lại bị pháo
kích. Và mặc dù sau đó thủy thủ đoàn đã bác bỏ thông tin, nhưng cơ quan tình
báo nói về việc bắt được thông tin radio, theo đó người Bắc Việt Nam đã thừa
nhận tấn công. Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua cái gọi là Nghị quyết vịnh Bắc Bộ, cho
phép tổng thống quyền đáp lại cuộc tấn công
này bằng bất kỳ những biện pháp nào. Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson ra
lệnh không kích vào các căn cứ hải quân của Bắc Việt Nam (Operation «Pierce -
Arrow»). Chiến tranh đã khởi đầu như thế.
Và hoàn toàn gần đây, tại Hoa Kỳ đã công bố tuyên bố của một nhà nghiên cứu
độc lập Matthew Ada, chuyên về lịch sử của Cơ quan An ninh Quốc gia (Cơ quan
tình báo điện tử và phán gián Hoa Kỳ) rằng các dữ liệu tình báo quan trọng nhất
về sự cố ở vịnh Vịnh Bắc Bộ năm 1964, lý do để Hoa Kỳ xâm lược Việt Nam, là giả mạo. Lúc bấy giờ các chuyên gia của
SNA đã phạm sai lầm khi giải mã thông tin thu được do đánh chặn radio. Các sĩ
quan cấp cao đã ngay lập tức phát hiện nhầm lẫn này, nhưng quyết định che giấu những
thông tin, để chứng minh về thực tế cuộc tấn công vào người Mỹ. Sau đó, các
quan chức cao cấp thường xuyên viện dẫn các dữ liệu này trong các phát biểu của
họ.
Trong trường hợp của Ucraina, chúng ta đã có
một chuỗi dài những sự kiện bi thảm kích
động sự leo thang chiến sự hơn nữa ở miền Đông-Nam.
Đó là "Boing" Malaysia
với gần ba trăm
hành khách bị bắn rơi trên lãnh thổ của Ucraina trong khu
vực Donetsk (họ đã cáo buộc Nga
và lực lượng dân quân). Đó có
hàng chục người bị giết bởi pháo
kích vào Donetsk và Mariupol, hủy diệt "tuyến đường"
ở ngoại ô Volnovaha, nhưng nói chung cần bắt đầu từ Odessa, nơi vào tháng Năm năm
ngoái, gần 40 người bị thiêu sống bởi các phần tử phát
xít tại Nhà công đoàn... Trong
mọi trường hợp, phương Tây không cần xét
xử và điều tra đã đổ cho CHND Donetsk và CHND
Lugansk (và Nga, tất nhiên) là thủ phạm gây ra thảm kịch.
Trong lịch sử ngắn
ngủi của mình theo tiêu chuẩn thế
giới, Hoa Kỳ đã tạo ra một công nghệ khiêu khích và những cơ chế thực thi nó chỉ nhằm
để đạt được sự thống trị toàn cầu của Mỹ.
Đó là phải có đầu óc bệnh hoạn mức nào đấy để đẩy các nước và một loạt các dân tộc vào chiến
tranh và đau thương và nói "thúc đẩy dân
chủ" và "nhân quyền"?!
Hãy nhớ rằng, ở Iraq đột nhiên phát hiện "chất độc" nào đó đe dọa an ninh
Hoa Kỳ như thế nào? Để xác nhận sự bịa đặt độc ác này, tướng Colin
Powell, ngoại trưởng Hoa Kỳ (trung úy trong chiến tranh Việt Nam), tại LHQ đã lắc ống nghiệm với một loại
bột màu trắng không rõ là gì. Sau
đó cuộc chiến tranh tiêu diệt Iraq
đã được tiền định. Họ gọi là chiến dịch "Shock và Awe". Cho đến nay người Mỹ
không tìm thấy các chất độc ở Iraq, nhưng đã đẩy đất nước đến một đống hoàn toàn đổ nát.
Còn ở Nam Tư, người Serbia dường như tiến hành thanh lọc sắc tộc đối với
người Croatia (cái cớ dẫn đế chiến tranh), mà vì thế người Serbia cần phải bị
"trừng phạt". Mỹ đã quyết định như thế. Vào tháng Ba năm 1999, vi
phạm Hiến chương của Liên Hiệp Quốc, NATO (đọc là Hoa Kỳ) đã phát động
"can thiệp nhân đạo" chống Nam Tư. Trong chiến dịch "Sức mạnh
đồng minh" đã sử dụng 927 máy bay và 55 tàu chiến (4 hàng không mẫu hạm). Binh
lính NАТО đã được phục vụ bởi một lực lượng vũ khí không gian mạnh mẽ. Để tấn công
các vào 900 cơ sở của nền kinh tế Nam Tư, NATO đã sử dụng 1200-1500 tên lửa
hành trình chính xác cao. Vì các vụ không kích của NATO hơn 2.000 dân thường bị
thiệt mạng và hơn 7.000 bị thương, tất cả các cây cầu chiến lược trên sông
Danube bị phá hủy. Hơn 750.000 người dân Nam Tư trở thành những người tị nạn,
còn lại 2,5 triệu người không có các điều kiện sống cần thiết. Tổng thiệt hại
vật chất gây ra bởi sự xâm lược của NATO là hơn 100 tỷ dollars.
Tại Novorossia khoảng 10 nghìn thường dân thiệt mạng, nhưng hiện thời số
lượng nạn nhân vô tội tăng lên không phải hàng ngày - mà hàng giờ. Tổng thiệt
hại chưa tính được, mặc dù được biết rằng có đến 85% cơ sở công nghiệp và cơ sở
hạ tầng đã bị phá hủy bởi các vụ oanh kích và pháo kích của quân đội Ucraina.
Tổng thư ký LHQ Ban Kee Moon bày tỏ lo ngại về sự thất bại của các thỏa thuận
Minsk và đảm bảo với chính quyền Ucraina "cả thế giới" đứng về phía
Ucraina. Mặc dù CHND Donetsk và CHND Lugansk chỉ yêu cầu một điều: thỏa thuận
ngừng bắn. Và sau đó mới có thể thương lượng.
Các nước "văn minh" bác bỏ mọi yêu cầu về "những điều kiện không thể chấp nhận
được" như vậy và đề nghị tiến hành đàm phán chấm dứt cuộc chiến dưới tiếng
gầm của pháo hỏa tiển của Ucraina. Bạn hãy nghĩ kỹ là nói chung điều gì đang xảy
ra ở phía Đông Ucraina.
Vô số xe tăng (thực tế tập đoàn quân xe tăng), vũ khí, các hệ thống hỏa tiển (và cả không quân) đã được điều đến
hai vùng lãnh thổ nhỏ bé và các tỉnh dân cư đông đúc, và bắn, bắn và bắn không
thương tiếc, một cách bài bản, thẳng thừng vào các vùng đất, hủy diệt mọi sự
sống, phá hủy nhà cửa, vườn trẻ, bệnh viện, nhà máy, hầm mỏ… Và cứ như thế - gần một năm nay. Còn Ucraina, cáo buộc các lãnh đạo của CHND Donetsk và
CHND Lugansk cố tình trì hoãn các cuộc đàm phán, bản thân họ phá vỡ các cuộc
tiếp xúc. Và khi, cuối cùng, các đại diện của họ không được giao chức năng
quyền hạn cần thiết xuất hiện ở Minsk thì chỉ đưa ra những vấn đề thuần túy thủ
tục để thảo luận. Hình như những người
Ucro-yêu nước có những tôn sư am hiểu, rõ ràng được đào tạo ở nước ngoài.
Ở Việt Nam cũng đã tiến hành nhiều biện pháp để
bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình, nhưng trên con đường của họ có ba trở ngại
(hãy so sánh): Hà Nội yêu cầu Hoa Kỳ chấm dứt hoàn toàn và vô điều kiện ném bom
miền Bắc Việt Nam; Mỹ đã từ chối yêu cầu này và không có bất kỳ sự nhượng bộ nào
từ phía Bắc Việt Nam; sự miễn cưỡng của chính quyền miền Nam Việt Nam tham gia
đàm phán với Mặt trân dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Và trong ba năm họ
không thể đạt được thỏa thuận. Chỉ ngay trước cuộc bầu cử tổng thống vào năm
1968, tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson đã ra lệnh chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam
từ ngày 1 tháng Mười một. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và và
chính quyền Sài Gòn đã được mời tham gia vào các cuộc đàm phán ở Paris.
Vào cuối tháng Mười năm 1972 sau các cuộc đàm phán bí mật tại Paris giữa cố
vấn an ninh quốc gia của tổng thống Nixon là Henry Kissinger và đại diện Bắc Việt Lê Đức Thọ đã đạt được
một thỏa thuận sơ bộ gồm chín điểm. Tuy nhiên, Hoa Kỳ do dự với chữ ký của
mình, và sau khi chính quyền Sài Gòn thân Mỹ phản đối về một số điểm, đã cố
gắng thay đổi các nội dung của thỏa thuận đã đạt được. Vào trung tuần tháng Mười
hai, các cuộc đàm phán đã bị cắt đứt, và Hoa Kỳ đã tiến hành những cuộc không
kích cấp tập nhất trong suốt thời gian chiến tranh vào Bắc Việt Nam.
Máy bay ném bom chiến
lược B-52 của Mỹ đã tiếp
tục ném bom "rải thảm" vào các quận của Hà Nội
và Hải Phòng, một trận ném bom phủ kín cả vùng lãnh thổ có chiều rộng 0,8 km và chiều dài 2,4 km. Hoa Kỳ đã thực hiện "thiêu
hủy" mặt đất mà bây giờ những kẻ cầm quyền của Ucraina
đang noi theo.
Ngoài Hoa Kỳ, các quốc gia Hàn Quốc, Australia, New Zealand, và sau đó là
Philippines và Thái Lan đã giúp đỡ chính phủ bù nhìn Nam Việt Nam , và để tấn
công, ví dụ, vào mùa thu năm 1966 đã huy động một lực lượng khổng lồ: 410 nghìn
lính Mỹ, 500 nghìn lính Sài Gòn, 54 nghìn lính đồng minh. Họ được hỗ trợ bởi 430 máy bay và trực thăng, 2.300 pháo
hạng nặng, 3.300 xe tăng và xe bọc thép, 203 tàu chiến. Đối trọng với lực lượng
này là 250 nghìn chiến sĩ của MTGPMN, trong số đó chỉ có có 90 nghìn bộ đội
thường trực, 105 nghìn quân du kích và 55 nghìn của các đơn vị hỗ trợ khác
nhau. Tuy nhiên, trong sự tương quan lực lượng có lợi cho Hoa Kỳ với sức mạnh chính trị-quân
sự to lớn của họ và các đồng minh, các hoạt động quy mô lới kéo dài vừa tròn 10
năm - từ 1965 đến 1975. Một vấn đề đặt ra: ai được hưởng lợi từ cuộc chiến
tranh này?
Và ở đây cần nêu ra một bên tham chiến chủ yếu trong
cuộc chiến - các tập đoàn Hoa Kỳ sản xuất vũ khí và đạn dược.
Trong chiến tranh Việt Nam đã sử dụng hơn 14 triệu tấn
chất nổ, gấp nhiều lần so với trong thời gian Chiến tranh thế giới II trên tất
cả các mặt trận. Bom, bao gồm bom tấn và những vũ khí hiện nay bị cấm, đã san
phẳng khỏi mặt đất những thị trấn và
làng mạc, lửa của bom napalm và photpho
đã thiêu hủy những ha rừng. Dioxin, chất độc hại nhất từng được tạo ra bởi con
người lúc nào đó, đã được rải xuống lãnh thổ Việt Nam với khối lượng hơn 400
kg. Các nhà hóa học cho rằng nếu chỉ cần 80 gram dioxin cho vào nguồn cung cấp
nước của New York, thì chỉ cần tỷ lệ này cũng đủ để biến nó thành một thành phố
ma.
Vì các hóa chất tổng cộng có hơn
1 triệu người bị ảnh hưởng, trong đó có
60 nghìn người Mỹ mà họ đã sinh ra 40 nghìn trẻ em bị
khuyết tật nặng nề. Các chất độc
hại đã được rải xuống 43%
lãnh thổ và 44% diện tích rừng. Vũ khí
này đang tiếp tục giết hại cho đến bây giờ, hủy hoại không chỉ thế hệ người
Việt Nam đầu tiên. 48 trong số 64 thành phố và 3275 trong số 5778 làng mạc của Việt Nam bị
máy bay Mỹ ném bom.
Tuy nhiên, thực tế không thua một trận đánh nào, Mỹ và các đồng minh của họ
đã bại trận. Trong khi đó Hoa Kỳ đã chi 352 tỷ dollars. Khoảng 60 nghìn binh sĩ
tử trận và gần 300 nghìn người Mỹ bị thương. Nhưng nhân dân Việt Nam đã phải
trả giá còn đắt hơn cho cuộc chiến tranh: năm triệu người đã chết. Tại sao
nhiều như vậy? Nhà sử học người Mỹ Nick Tarsus đưa ra câu trả lời: "Nguyên
nhân chính của những tổn thất lớn đến vậy nằm trong chiến lược của Mỹ, mà mục
đích của nó là giết hại càng nhiều "kẻ thù" càng tốt. Sự thành công
được đo bằng số lượng của xác chết. Thường thì những xác chết này không phải là
chiến binh kẻ thù". (Chính phủ Ucraina trả những phần thưởng hậu hĩnh cho
phương tiện chiến tranh bị bắn hỏng, dường như ở đó không có người). Nhờ thế
lợi nhuận của các tập đoàn quân sự của Hoa Kỳ lên tới nhiều tỷ dollars. Chính
VPK của Hoa Kỳ không quan tâm đến một chiến thắng nhanh chóng của quân đội Mỹ. Còn
hôm nay?
Cuối năm ngoái, cựu phó
thủ tướng và cộng sự thân cận của cựu tổng thống Ucraina Viktor
Yushchenko đề xuất thành lập khu biệt
lập tại một phần của Donbass không thuộc quyền kiểm soát của Kiev. Chính khách
đã so sánh các vùng lãnh thổ của các CHND Donetsk và Lugansk với …Chernobyl.
"Điều
gì đã ngăn cấm thành lập một khu vực như vậy ở đó? Cô lập hóa nó, tách nó khỏi các
phương thức tồn tại. Vị thế này sẽ mang lại cơ hội tiến hành đối thoại từ địa
vị của một quốc gia, mà không phải suy nghĩ về việc công dân sẽ cảm thấy như
thế nào và vân vân…", - Bessmertnyi đã nói trên "kênh Năm" thuộc
sở hữu của P. Poroshenko trong chương trình truyền hình trực tiếp. Và những lời
này - cũng là một sự khiêu khích, rõ ràng nhằm vào những hành động đáp lại. Tiện
thể, Bessmertnyi đã trở nên nổi tiếng sau khi gọi những kẻ khủng bố chiếm
trường học ở Beslan của Nga là những chiến sĩ đấu tranh vì ý chí của dân tộc bị
áp bức. Và đâu là sự đảm bảo rằng người Mỹ sẽ không ủng hộ ý tưởng này? Không
có những đảm bảo như vậy. Cả Ucraina, trước hết, cả Nga và cả châu Âu, không
trông mong điều gì tốt đẹp từ chuyến đi thăm đến Kiev của ngoại trưởng John.
Kerry, thêm vào đó là vị khách cấp cao, như người ta nói, đến để "tăng
cường lĩnh vực an ninh quốc gia".
... Còn cậu bé bị thương trong quân y viện ở Kiev, rõ ràng không
hiểu thậm chí toàn bộ chiều sâu bi kịch của
mình, bằng bàn tay còn lại nắm lấy chiêc huy hiệu của
Mỹ, nhìn vào nó và thốt lên "trước camera": điều này chẳng giúp được
gì cho sức khỏe…Và nói thêm: bù lại sẽ khoe với tụi trẻ con…
-----
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét