Nguồn: doimat
Kichbu posted on 20.06.2013
Đến hẹn lại lên, cơn sốt rét mãn tính của mối
quan hệ Triều Tiên - Mỹ + Hàn Quốc lại bước vào chu kỳ tăng nhiệt. Hầu
hết mọi người trên thế giới này đều nghĩ đơn giản rằng đây là hậu quả
còn sót lại của chiến tranh lạnh, một "phiên bản lỗi" của Việt Nam và
Đức. Sự thực thế nào thì chúng ta phải ngược dòng lịch sử để tìm hiểu.
Điều này hơi khó khăn vì Triều Tiên là một trong những quốc gia kỳ bí
nhất thế giới, và cuộc chiến tranh Triều Tiên, một trong những cuộc
chiến tàn khốc nhất thế kỷ 20 lại được xem là "cuộc chiến bị lãng quên".
Rất may cho chúng ta là Thiếu Long
đã tập hợp giùm chúng ta những thông tin cần thiết về mảnh đất Triều
Tiên, từ lịch sử đến hiện tại và cả những nhận định cho tương lai trong bài viết rất công phu sau đây. Dù bài viết này đã viết cách đây 1 năm nhưng tính thời sự thì vẫn mới nguyên như ngày hôm qua! Mời các bạn tham khảo.
Xưa nay Bắc Triều Tiên là một quốc gia bí ẩn, khép kín với thế giới bên ngoài, cái gì thần bí, chưa biết thì càng kích thích trí tưởng tượng và tâm lý hiếu kỳ của thiên hạ, do đó những tin tức, đề tài về Triều Tiên lâu nay luôn sốt dẻo, hấp dẫn đối với người đọc.
Không phải chỉ có nhiều người chưa biết về tình hình hiện tại bên trong quốc gia "thần thần bí bí" này, mà ngay cả lịch sử Triều Tiên, lịch sử chiến tranh Triều Tiên lâu nay cũng vẫn mơ hồ đối với nhiều người, nhất là các bạn đọc không phải người Triều Tiên, người Hàn, trong đó có người Việt Nam chúng ta.
Việt Nam lâu nay luôn nhất quán với quan điểm không đánh giá, can thiệp vào việc nội bộ của nước khác, các môn học về lịch sử thế giới, lịch sử châu Á ở Việt Nam đều chỉ ghi nhận chung chung vấn đề hoặc ghi nhận khách quan một số diễn biến lịch sử quan trọng, chính yếu của các nước, chứ không nhận xét, đánh giá gì (ngoài đề tài Thế chiến 2) về nó, cũng không có những hội thảo chuyên sâu cấp nhà nước về những đề tài lịch sử của nước ngoài. Lịch sử Triều Tiên và cuộc chiến liên Triều cũng không ngoại lệ, điều này càng tạo ra nhiều mơ hồ hơn về cuộc chiến Triều Tiên nói riêng và lịch sử Triều Tiên nói chung.
Trong một số cuộc chiến tranh quy mô lớn có liên quan đến hai phe cộng sản và tư bản trong lịch sử hiện đại ở khu vực châu Á thì cuộc chiến tranh Triều Tiên là một cuộc chiến phức tạp về mặt chính trị. Trong khi chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ ở Việt Nam là chiến tranh chống xâm lược nằm trong một bối cảnh mâu thuẫn quốc tế giữa 2 khối XHCN và TBCN, cũng như chống các công cụ ngụy quyền mà họ dựng lên sau khi VN đã độc lập và thống nhất về mặt pháp lý từ năm 1945. Trong khi nội chiến Trung Quốc rất rõ ràng là nội chiến, hoàn toàn chỉ có 2 quân đội Đảng Cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông đứng đầu và quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu chống nhau, Mỹ chỉ có vai trò viện trợ hạn chế về vũ khí và tiền bạc, thì chiến tranh Triều Tiên lại rất khó để phân định bản chất của nó, chính nghĩa của các bên, và mục tiêu của các bên.
Nếu đề tài Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam, Nội chiến Trung Quốc (Chinese Civil War) đa số các sử gia quốc tế đều khá đồng nhất về quan điểm thì đề tài Chiến tranh Triều Tiên cho tới ngày nay vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa có sự đồng thuận, nhất trí trong giới sử học thế giới.
Do chưa biết rõ, chưa có nhiều thông tin, nên lâu nay nhiều người chưa có cái nhìn thật sự khách quan về bối cảnh, tình cảnh bán đảo Triều Tiên, về CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, vai trò của Trung Quốc và Hoa Kỳ đối với bán đảo này. Phần lớn nhận định của họ dựa trên cảm tính yêu ghét và lợi ích bản thân.
Những người đặt trọng tâm vào lịch sử thời chống Pháp, chống Mỹ, khi CHDCND Triều Tiên đứng về phía ta, thì sẽ thích Triều Tiên, ghét Hàn Quốc (nhất là những nạn nhân hoặc có người thân, bạn bè là nạn nhân của những tội ác, thảm sát do gần 20 vạn quân Hàn Quốc gây ra trong lúc tham chiếm giúp Mỹ xâm lược Việt Nam). Những người đặt trọng tâm vào lịch sử thời sau Giải phóng và trước Đổi mới, thời kỳ chiến tranh chống Trung Quốc và Khmer Đỏ, khi CHDCND Triều Tiên đứng về phía Trung Quốc và Khmer Đỏ, thì sẽ ghét Triều Tiên.
Ngày nay lợi ích kinh tế, giáo dục của Việt Nam gắn nhiều với Hàn Quốc, những bạn có lợi ích gắn liền với Hàn Quốc, hoặc ưa thích, thần tượng những nhân vật công chúng, ca sĩ, diễn viên, idol, âm nhạc, phim ảnh của Hàn Quốc thì cũng sẽ thích Hàn Quốc theo cảm tính tự nhiên. Nói chung, thường ai đó nếu đã ưa Triều Tiên thì sẽ không ưa Hàn Quốc, nếu ai đã ưa Hàn Quốc thì sẽ không ưa Triều Tiên, nếu đã ưa bên này thì sẽ không ưa bên kia. Ít ai ưa thích cả hai phe hoặc ghét bỏ cả hai phía.
Trong bài này tôi xin được viết về đề tài này, trình bày mọi góc cạnh một cách khách quan nhất, ít cảm tính nhất, nhiều chiều nhất, trung lập nhất để bạn đọc dễ tham khảo. Và dù ai đã có định kiến, thành kiến, yêu ghét hai bên như thế nào thì vẫn có thể đọc được dễ chịu.
☼☼☼
Chỉ mới vài tháng trước, tình hình bán đảo Triều Tiên và vấn đề phi hạt nhân hóa trong khu vực đang rất căng thẳng giữa Bắc Triều Tiên và Hoa Kỳ - Hàn Quốc - Nhật Bản, không biết bao giờ sẽ có đàm phán trở lại. Bắc Triều Tiên vẫn luôn vỗ ngực tuyên bố sẵn sàng đương đầu, tiến hành "chiến tranh thần thánh" với Mỹ - Hàn - Nhật. Tuy nhiên, sau khi Kim Chính Ân (Kim Jong-un) kế vị cố chủ tịch Kim Chính Nhật (Kim Jong-il) thì Bắc Triều Tiên bất ngờ nói chuyện với phía Mỹ và sau đó nhanh chóng chấp nhận "ngừng chương trình hạt nhân" để đổi lấy viện trợ lương thực từ Mỹ.
Thật ra hành động lần này của Triều Tiên không khác gì với với đường lối lãnh đạo truyền thống, mà chỉ là một sự tiếp nối với những gì đã tồn tại suốt hơn hai thập kỷ qua. Thỏa thuận mà Bình Nhưỡng chấp nhận vừa rồi chẳng khác gì với thỏa thuận từng rơi vào bế tắc sau các cuộc tiếp xúc Mỹ - Triều Tiên hồi tháng 10/2011 ở Geneva. Định hướng cơ bản của Triều Tiên không có sự thay đổi lớn. 240.000 tấn lương thực là khoản viện trợ không nhỏ, nhưng nó chưa đủ lớn để tạo nên một bước ngoặt trong cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên.
Triều Tiên lâu nay bị Mỹ và các đồng minh bao vây cấm vận. Dưới thời tổng thống tài hoa Bill Clinton, Mỹ lúc này có một chính phủ bồ câu ôn hòa và một chính sách cởi mở, thông thoáng. Do muốn tập trung vào phục hồi khủng hoảng kinh tế, vấn đề nội trị, nạn thất nghiệp, phá sản ở Mỹ lúc đó, nên họ muốn làm hòa với Tiều Tiên để làm dịu tình hình. CHDCND Triều Tiên cũng cần điều này để thoát cấm vận nên đã đồng ý với Mỹ về một lộ trình phi hạt nhân hóa, đi kèm với thỏa thuận này là chính sách Ánh Dương của cựu tổng thống Hàn Quốc Kim Đại Trung (Kim Dae-jung, Kim Tê Chung) với hy vọng thống nhất bằng giải pháp hòa bình.
Từ đó quan hệ liên Triều nồng ấm hẳn lên, nhưng sau khi tổng thống George W. Bush và chính phủ diều hâu, hiếu chiến, bảo thủ của ông ta lên lãnh đạo, và tình hình trong nước Mỹ cơ bản đã ổn, kinh tế và các ngành nghề đã phục hồi và ổn định, Mỹ liền hướng ngoại và đã lật đổ mọi nỗ lực hòa bình trong khu vực mà Bill Clinton, Kim Đại Trung và Kim Chính Nhật đã khó khăn xây dựng. Chính phủ Bush đã bội ước khiến Bắc Triều Tiên nổi giận và tái khởi động dự án hạt nhân.
Không lâu sau đó, Bình Nhưỡng tiếp tục đồng ý tạm dừng chương trình hạt nhân, nhưng sau đó lại tiến hành các vụ phóng tên lửa. Năm 2006, Triều Tiên một lần nữa tuyên bố ngưng chương trình hạt nhân, nhưng lại tiết lộ một nhà máy làm giàu uranium vào cuối năm 2010. Phần lớn những lần "xuống nước" của Bình Nhưỡng đều để đổi lại những khoản viện trợ lương thực và nhiên liệu.
Nhiều người Mỹ trên khắp các trang mạng, viết ý kiến dưới các bài báo, đều bức xúc hỏi "tại sao lần nào chúng ta cũng mắc lừa bọn ấy", "đây là lần thứ mấy rồi bọn chúng làm vậy", "việc này cứ diễn đi diễn lại" v.v. Và rất nhiều người đặt dấu hỏi vì sao mà ngay tại Mỹ đang có bao nhiêu người thiếu ăn, thiếu thốn, vô gia cư, vô nghề nghiệp, ăn mày, nạn nhân của khủng hoảng kinh tế thị trường, của thiên tai lũ lụt v.v. đang cần thực phẩm, cần sự giúp đỡ nhân đạo, mà không giúp đồng bào lại đi giúp nước ngoài, giúp ai không giúp lại đi giúp "bọn North Korea", quốc gia mà cựu tổng thống Bush đã từng liệt vào "Trục ma quỷ" và đưa vào danh sách "tài trợ khủng bố".
Thật ra Mỹ không hề ngu khờ gì trong quyết định này, đây là vấn đề chính trị, vì các mục tiêu chính trị và lợi ích chính trị của chính Mỹ. Về trước mắt, Mỹ cần làm dịu bớt tình hình căng thẳng trong khu vực Đông Bắc Á và bán đảo Triều Tiên, muốn tạm làm lành với Bắc Triều Tiên để có thể yên tâm tập trung hướng vào Syria và Iran. Họ không muốn bị vướng víu nhiều vấn đề cùng một lúc, chống nhiều mũi chọn cùng một lúc. Việc tạm hòa với Triều Tiên thông qua thỏa thuận này chính là một nước cờ chính trị để tạm ổn định tình hình khu vực, ổn định bớt một mặt trận, và làm cùn bớt một mũi nhọn chỉa vào mình.
Về tổng thể và lâu dài, Mỹ muốn trang điểm cho bộ mặt "hiệp sĩ", "đạo đức", "quân tử" của mình, củng cố "chính nghĩa" và "lẽ phải" của mình, vì dù sao đi nữa thì hành động viện trợ nhân đạo luôn là hành động đẹp trước mắt công chúng, đồng thời đánh lạc hướng dư luận khỏi một sự thật bao nhiêu năm nay là Mỹ đã bao vây, cấm vận Triều Tiên. Mặt khác, Mỹ muốn thăm dò tình trạng khó khăn và túng thiếu của Triều Tiên. Mỹ cũng muốn làm một phép thử để dò xét thái độ của chính phủ mới Kim Chính Ân sau khi kế tục cha mình, xem chính sách và phong cách ngoại giao, về tổng quát, có thay đổi, khác biệt chút nào không, theo hướng mạnh mẽ hay ôn hòa, muốn chiến hay hòa...
CHDCND Triều Tiên chấp nhận mối "giao dịch" này đầu tiên có lẽ là thật sự họ đang túng thiếu. Dân Triều Tiên do thiên tai bão lụt, do chính sách tự cô lập bế quan tỏa cảng, tự cung tự cấp của chủ thuyết Juche và do sự cấm vận ráo riết và khắc nghiệt của Mỹ, làm cho nhân dân Triều Tiên quả thật thiếu thốn lương thực. Và cũng do muốn tỏ ra có thiện chí, đưa ra bộ mặt tốt trước hết là đối với nhân dân trong nước (có lương thực), sau là dư luận quốc tế (ngừng chương trình hạt nhân), đặc biệt đối với một nhà lãnh đạo mới và còn rất trẻ trung (nếu không nói là lãnh tụ trẻ nhất thế giới hiện tại), chưa có nhiều công lao, chưa có nhiều kinh lịch, trải nghiệm, thì đây là quyết định ngoại giao rất có ý nghĩa chính trị. Đây là mối "giao dịch" hai bên đều có lợi và đầy những tính toán, dụng ý sâu xa, có tác dụng, hiệu quả chính trị sâu sắc.
Lịch sử phong kiến Triều Tiên
Lịch sử Cao Ly (Koryo, Korea) kéo dài từ thời kỳ đồ đá cũ đến ngày nay. Sau sự tan rã của Cổ Triều Tiên, Triều Tiên bước vào thời kỳ phân tranh quyền lực mà đỉnh điểm là thời Tam quốc tranh hùng gồm 3 nước Cao Câu Ly (Goguryeo), Bách Tế (Baekje) và Tân La (Silla) kéo dài từ năm 57 trước công nguyên (TCN) đến năm 668 sau công nguyên (SCN). Đến năm 676, Tân La thống nhất hầu hết bán đảo Triều Tiên. Trong khi đó, bộ hạ của nhà Cao Câu Ly thành lập vương quốc Bột Hải ở phía Bắc bán đảo Triều Tiên vào năm 698. Năm 926, Bột Hải bị người Khiết Đan thôn tính; Triều Tiên lại rơi vào thời kỳ phân tranh Hậu Tam Quốc (892–935) với 3 triều đình Hậu Cao Câu Ly, Tân La, Hậu Bách Tế.
Nhà Cao Ly (918-1392) chấm dứt tình trạng phân chia bán đảo Triều Tiên kéo dài gần 1000 năm sau công cuộc giành vương quyền Hậu Cao Câu Ly và thôn tính Tân La, Hậu Bách Tế. Năm 1392, Cao Ly sụp đổ và được thay thế bởi nhà Triều Tiên (1392–1897) và sau đó là Đế quốc Đại Hàn (1897–1910) trước khi bị người Nhật thôn tính vào năm 1910.
Năm 1231 - 1273 xảy ra chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly (lúc này Mông Cổ chưa thôn tính xong hết Trung Hoa Đại Lục và chưa thành lập nhà Nguyên), cuộc chiến bao gồm 6 chiến dịch lớn của quân Mông Cổ gây thiệt hại nặng nề cho bán đảo Triều Tiên. Sau khi vua Cao Ly giật dây cho phái đầu hàng của các nhóm quan văn Cao Ly hành thích Tể tướng chủ chiến Thôi Nghị và tiêu diệt gia tộc họ Thôi vốn lâu nay áp lực triều đình chống giặc Mông Cổ, Cao Ly đã xin hàng, phải ký hiệp ước đầu hàng, cống nạp vàng bạc châu báu và tài nguyên, trẻ em, nữ nô, và thợ thủ công để làm nô lệ và nô bộc cho đế quốc Mông Cổ, phải cho các con cháu quý tộc, bao gồm các công chúa, hoàng tử sang Mông Cổ làm con tin, và đồng thời trở thành một chư hầu, phiên thuộc của Mông Cổ trong gần 1 thế kỷ sau.
Lịch sử cận đại và hiện đại Triều Tiên
Triều Tiên dưới ách cai trị của đế quốc Nhật từ năm 1910. Người Nhật gọi Triều Tiên là ngoại địa và Nhật Bản là nội địa, có nhiệm vụ "khai phóng" Triều Tiên trong chính sách "Phồn vinh châu Á". Chính sách cai trị của Nhật được chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ năm 1910 đến 1919 cốt "thuần hóa" nhân dân Triều Tiên, bình định bán đảo Triều Tiên. Giai đoạn hai từ năm 1920 đến 1931 là giai đoạn dung hòa, mị dân, ôn tồn phủ dụ, nới rộng sự kiểm soát, phát triển văn hóa, giáo dục. Giai đoạn ba, từ 1931 đến 1945 phát triển kỹ nghệ và Nhật hóa.
Trong thời kỳ bị đế quốc Nhật Bản đô hộ, người Triều Tiên vùng lên chống lại rất nhiều lần và hình thành nhiều thế lực chính trị khác nhau. Tuy nhiên, không có phong trào nào, lực lượng nào gây ấn tượng, thậm chí họ không có lực lượng vũ trang và vì vậy không thể hoạt động dưới sự bố ráp, ruồng bố, đàn áp của quân phiệt Nhật, khiến họ đành phải hoạt động ở Trung Quốc và hải ngoại. Đến năm 1939 tất cả các thế lực chống Nhật đều bị tận diệt hoặc phải lưu vong ngoại quốc, không còn thế lực nào hoạt động trong nước.
Mãi về sau mới có 2 lực lượng quân sự ra đời; một là Quân Tình nguyện Triều Tiên, do hai tướng Kim Tu-bong (Kim Đấu Phụng) và Mu Chong (sau này bị Kim Nhật Thành thanh trừng) thành lập ở "thánh địa cộng sản" Diên An, Trung Quốc vào năm 1939, sau này tướng Kim Nhật Thành vào lãnh đạo. Đội quân này chỉ có vài trăm du kích cộng sản nhưng đến năm 1945 đã phát triển lên 1000 quân.
Hai là Quân Giải phóng Triều Tiên (còn được gọi là Hàn Quốc Quang phục quân), do Kim Gu (Kim Cửu) thành lập ở Trùng Khánh, TQ vào ngày 17 tháng 9 năm 1941, dưới sự thống lĩnh của các tướng Ji Cheong-cheon, Lee Bum-suk (người hùng của trận chiến 6 ngày Qingshanli đánh Nhật), tuyên chiến với phát xít Đức và Nhật. Sau này tướng Kim Won-bong dẫn Nghĩa Liệt Đoàn sát nhập vào Quân Giải phóng Triều Tiên, lực lượng lên được mấy trăm tay súng.
Quân Giải phóng Triều Tiên (Hàn Quốc Quang phục quân)
Sau khi phe Trục thua, Kim Cửu cố gắng kéo quân về nước tham gia giải phóng và tranh quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào giải giáp quân Nhật, nhưng không kịp. Sau khi Liên Xô và Hoa Kỳ giải phóng bán đảo Triều Tiên, Quân Giải phóng Triều Tiên chia rẽ nội bộ sâu sắc và đã phân rã, các tướng lĩnh, lãnh đạo người thì theo tiến sĩ Lý Thừa Vãn, kẻ thì gia nhập vào Quân Tình nguyện Triều Tiên của Kim Nhật Thành.
Tiến sĩ Lý Thừa Vãn ở Nam phần Triều Tiên ra sức chiêu hiền đãi sĩ, thu hút hiền tài, Các tướng Ji Cheong-cheon, Lee Bum-suk theo Lý Thừa Vãn và được trọng dụng, ưu đãi. Lee Bum-suk sau này là Thủ tướng trong Chính phủ đầu tiên của nước Đại Hàn Dân Quốc. Kim Cửu cũng vào hoạt động chính trị ở Nam Triều Tiên, nhưng không theo Lý Thừa Vãn mà là tranh quyền với ông ta, công khai phê phán, chỉ trích ông ta nhiều lần.
Khi viễn cảnh và triển vọng một Triều Tiên độc lập khỏi sự đô hộ, nô dịch của Nhật Bản đã hình thành, thì Kim Cửu đã dẫn một phái đoàn gồm những nhà hoạt động có tên tuổi lặn lội đến Bình Nhưỡng xin gặp Kim Nhật Thành để bàn việc thống nhất bán đảo Triều Tiên, thuyết phục Kim khoan việc tính chuyện lập quốc ở miền Bắc, không ngờ bị Kim Nhật Thành bác bỏ thẳng thừng và hai bên to tiếng cãi nhau một trận. Kim Cửu ngao ngán trở về miền Nam. Sau khi thất bại trong nhiệm vụ du thuyết trở về, Kim Cửu bị Lý Thừa Vãn lợi dụng thêm một lần nữa trong cuộc bầu cử. Một năm sau, năm 1949, Lý Thừa Vãn cho người ám sát Kim Cửu.
Kim Cửu là một nhà dân tộc chủ nghĩa thật thà, trong sáng, và ngày nay vẫn được Hàn Quốc ca tụng, xây tượng để vinh danh. Bắc Triều Tiên tuy coi ông là một người theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân tộc cải lương, nhưng cũng rất tôn trọng ông.
Tướng Kim Won-bong, phó tư lệnh Quân Giải phóng Triều Tiên, không theo Kim Cửu về Nam, mà ở lại theo Kim Nhật Thành. Tuy nhiên, ông bị Kim Nhật Thành nghi oan và thanh trừng vào năm 1958, sau đó ông tự sát.
Sau Thế chiến 2, Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh vào năm 1945, Liên Xô và Hoa Kỳ tiến vào giải phóng bán đảo Triều Tiên, giải giới quân phiệt Nhật, chiếm đóng tạm thời, và bán đảo Triều Tiên bị chia đôi thành 2 quốc gia độc lập với ranh giới ở vĩ tuyến 38.
Nam Triều Tiên do tiến sĩ Lý Thừa Vãn lãnh đạo với sự hậu thuẫn của quân đội Hoa Kỳ, bầu Quốc hội ở Nam Triều Tiên và hoàn thành Hiến pháp ngày 17 tháng 7 năm 1948, ngày 15 tháng 8 năm 1948 tuyên bố lập quốc, thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc thân Mỹ và theo chủ nghĩa tư bản.
Bắc Triều Tiên do Kim Nhật Thành lãnh đạo với sự hỗ trợ của Hồng quân Liên Xô, gần 1 tháng sau khi Đại Hàn Dân Quốc đã tuyên bố độc lập và thành lập quốc gia, thì họ cũng tuyên bố lập quốc vào ngày 9 tháng 9 năm 1948, thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên thân Xô - Trung và theo chủ nghĩa Kim Nhật Thành và thuyết Chủ thể (Juche), một học thuyết do Kim Nhật Thành và các lý luận gia của CHDCND Triều Tiên nghiên cứu và phát triển, mang nhiều yếu tố của tư tưởng truyền thống Triều Tiên và tinh thần tự lực cánh sinh.
Tên gọi "Triều Tiên" là lấy từ thời đại Cổ Triều Tiên tồn tại nhiều ngàn năm trong lịch sử bán đảo này, trong đó có các nước Cơ Tử Triều Tiên, Toán Tử Triều Tiên, Đàn Quân Triều Tiên, Vương Kiếm Triều Tiên, Vệ Mãn Triều Tiên, vẫn còn được ghi chép sơ lược trong cuốn "Tam Quốc Di Sự". Danh từ "Triều Tiên" còn được dùng cho triều đại Triều Tiên, vốn tồn tại hơn 200 năm, là triều đại phong kiến cuối cùng của dân tộc này trước khi bị đế quốc Nhật Bản xâm lược.
Còn Đại Hàn Dân Quốc, viết gọn là Hàn Quốc, là một cải biên từ danh từ của 3 bộ lạc "Tam Hàn" và "Đại Hàn Đế Quốc" của nhà Triều Tiên, và quốc hiệu này chỉ tồn tại vỏn vẹn có 13 năm là triều đình Triều Tiên sụp đổ, thất thủ trước quân xâm lược Nhật.
Những năm cuối cùng của triều đại Triều Tiên dưới quốc hiệu Đại Hàn thì đã rất suy đồi, suy yếu, triều cương hủ bại, vua quan chỉ lo hưởng lạc, bỏ bê việc triều chính, dung túng quan binh nhũng nhiễu bá tánh, nhân dân đói khổ, lầm than, than oán, là một trong những triều vua tệ nhất trong lịch sử dân tộc Cao Ly. Nên khi nước Nhật đem quân tiến vào chiếm lấy Triều Tiên nhanh chóng mà không khó nhọc gì. Vì vậy việc lực lượng Lý Thừa Vãn lập quốc trước mà lại lấy Đại Hàn làm quốc hiệu thì khá là khó hiểu.
Quốc kỳ Đại Hàn Dân Quốc là lá cờ Âm Dương (Yin Yang) với bát quái (8 quẻ) bao quanh. Theo lịch sử Triều Tiên, đây thật ra là lá cờ của Quân Giải phóng Triều Tiên thành lập năm 1941 cải biên từ lá cờ triều đình của vương quốc Tân La, một triều đình hùng mạnh và từng có công thống nhất bán đảo Triều Tiên, nhưng cũng bị nhiều sử gia Triều - Hàn xem là bọn cõng rắn cắn gà, rước voi giày mồ, vương triều này là đồ đệ trung thành của triều Đường ở Trung Quốc, cùng với quân Đường đánh nhau với anh em trong nhà trong các thời Tiền Tam Quốc, Tam Quốc (Triều Tiên), Hậu Tam Quốc, đánh Bột Hải, đánh Cao Câu Ly (tiền thân của đế chế Cao Ly sau này)... Suốt thời kỳ cầm quyền và cả thời Tân La thống nhất sau này, triều Tân La thường là đồng minh trung thành của Trung Hoa, chuyên cùng với quân Tàu đi thảo phạt các thế lực khởi nghĩa, nổi dậy trong nước.
Hàn Quốc chống cộng mà lại dùng một lá quốc kỳ đậm chất Trung Hoa như vậy là vì lúc đó là năm 1948, Quốc dân đảng Trung Hoa còn mạnh và vẫn có ưu thế trên chiến trường chống cộng sản. Có lẽ vì vậy tập đoàn Lý Thừa Vãn muốn tỏ ý thân thiện và thần phục Trung Hoa. Thời đó nhiều người trong phe tư bản vẫn hy vọng rằng Tưởng trước sau gì cũng sẽ thắng Mao, thống nhất đại lục Trung Hoa.
Mặc dù tuyên bố theo chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Marx - Engels - Lenin nhưng nhiều học giả phương Tây nhận xét rằng CHDCND Triều Tiên theo chủ nghĩa Stalin và nặng tính chủ nghĩa Mao Trạch Đông hơn là chủ nghĩa Marx thật sự. Quan điểm chính thống của Việt Nam trong những năm tháng chống Trung Quốc (1979-1992) cũng không xem Bắc Triều Tiên là một quốc gia theo chủ nghĩa Marx-Lenin chân chính. Năm 2003, Triều Tiên đã chỉnh sửa và bổ sung Hiến pháp, và dùng thuật ngữ Chủ thể thay vào tất cả các thuật ngữ cộng sản trong Hiến pháp, hoàn toàn theo đuổi một con đường riêng với chủ nghĩa Juche của Kim Nhật Thành và chính sách Tiên quân, quân đội hàng đầu (선군 정책) của Kim Chính Nhật.
Hai bên đã đối đầu trực tiếp với nhau trong cuộc chiến Triều Tiên năm 1950, sau đó quân đội hai bên tan rã, đại quân Trung Quốc và Liên Hiệp Quốc do Mỹ cầm đầu nhảy vào. Sau 3 năm chiến tranh giằng co, đẫm máu, bán đảo Triều Tiên vẫn duy trì tình trạng chiến tranh và chia thành hai quốc gia cho đến ngày nay.
Về bản chất của chiến tranh liên Triều và tình hình ngày nay thì cũng chẳng khác nhiều với thời kỳ Tiền Tam Quốc, Tam Quốc (Triều Tiên), Hậu Tam Quốc, và Nam Bắc Triều bên bán đảo Triều Tiên. Với các nước, các thế lực khác nhau thống trị bán đảo như Bắc Phù Dư, Đông Phù Dư, Cao Câu Ly, Bách Tế, Tân La, Bột Hải, Hậu Cao Câu Ly, Hậu Bách Tế v.v. Bên Cao Ly chia rẽ, phân hóa, nội chiến, nội loạn, đánh giết lẫn nhau cũng gần như phong kiến Trung Hoa. Thời cận đại do những diễn biến lịch sử, các đặc điểm lịch sử khách quan, nên bán đảo này biến thành 2 nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía Bắc và Đại Hàn Dân Quốc ở phía Nam, âu cũng là nối tiếp truyền thống xa xưa và lịch sử tái hiện.
Liên Xô giải phóng Bắc Triều Tiên
Mỹ giải phóng Nam Triều Tiên
Ngày 8 tháng 9 năm 1945, Liên Xô và Hoa Kỳ tiến quân vào bán đảo Triều Tiên giải giáp quân đội Nhật. Liên Xô đã rút quân ra khỏi Bắc Triều Tiên vào năm 1948, trong khi Mỹ vẫn kéo dài việc đóng quân tại Nam Triều Tiên trong những năm sau đó.
Tại Bắc Triều Tiên, viên tướng trẻ Kim Nhật Thành, một lãnh tụ quân đội chống Nhật của Triều Tiên, cùng với Hội Phục hưng Tổ quốc và Quân Tình nguyện Triều Tiên kết hợp với các lực lượng ái quốc, kháng Nhật, thân cộng, thiên tả khác ở miền Bắc Triều Tiên và Trung Quốc, lập ra Ủy ban Nhân dân Lâm thời Bắc Triều Tiên, sau đó thành lập Đảng Lao động Bắc Triều Tiên, sau sát nhập Đảng Nhân dân Mới vào rồi đổi tên thành Đảng Lao động Triều Tiên. Tiến hành thanh trừng Đảng Cộng sản Triều Tiên.
Đảng Cộng sản Triều Tiên(조선공산당, Triều Cộng) là một đảng chính trị theo chủ nghĩa cộng sản được Quốc tế Cộng sản thành lập tại Triều Tiên vào năm 1925 dưới thời bị Nhật đô hộ. Thập niên 1920, Đảng Cộng sản Triều Tiên mở rộng hoạt động ra tận các khu vực có người Triều Tiên sinh sống gồm Nhật Bản và Mãn Châu. Do bị Nhật đàn áp, Trung ương đảng này bị xóa sổ rồi lập lại nhiều lần, vì thế mà có đến 4 Đảng Cộng sản Triều Tiên cùng tên. Sau khi Đảng Cộng sản Triều Tiên thứ tư bị Quốc tế Cộng sản xóa sổ vào năm 1929 vì cho là chủ nghĩa dân tộc cải lương, chủ nghĩa sô-vanh, nhiều chi bộ của nó vẫn tồn tại và phong trào tái lập Đảng Cộng sản Triều Tiên vẫn được tiếp tục.
Sau Chiến tranh Thái Bình Dương, Đảng Cộng sản Triều Tiên được một số chí sĩ tái lập vào tháng 9 năm 1945. Nó chính là một trong những tiền thân của Đảng Lao động Triều Tiên. Tuy nhiên, người sáng lập Đảng Lao động Triều Tiên, Kim Nhật Thành không có quan hệ gì với Đảng Cộng sản Triều Tiên, đồng thời giữa hai đảng này lại có những đối lập giữa các cá nhân, vì thế Kim và Đảng Lao động Triều Tiên trước khi lập quốc đã phải thanh toán đối thủ chính trị của phe mình, dùng lực lượng quân sự có sẵn để tiến hành đánh dẹp, Đảng Cộng sản Triều Tiên không có quân đội trong tay, lại có thực lực yếu ớt, nên đã bị dẹp dễ dàng và nhanh gọn, không để lại bao nhiêu hậu quả chính trị. Từ đó quan điểm chính thống của CHDCND Triều Tiên luôn có những đánh giá mang tính phủ nhận đối với Đảng Cộng sản Triều Tiên, sợ uy tín và những công lao của Đảng Cộng sản Triều Tiên gây ảnh hưởng tiêu cực, làm lu mờ đi vai trò và tầm ảnh hưởng của Đảng Lao động Triều Tiên.
"Tiểu anh hùng" Kim Nhật Thành lúc thành lập Liên minh Đả đảo Chủ nghĩa Đế quốc năm 1926
Gia tộc họ Kim là một gia đình yêu nước, cả nhà đều chống Nhật. Nhà ngoại của Kim Nhật Thành đã hoạt động tuyên truyền chống Nhật từ những năm đầu kháng chiến, gia đình phải vào đạo Cơ Đốc Tin Lành để tránh tai mắt của quân xâm lược, ông ngoại của Kim Nhật Thành cũng phải hóa thân làm một mục sư. Đến năm 1920, trước tình hình bố ráp ngày càng căng thẳng của toàn quyền Nhật, gia đình này vượt sông Áp Lục và tỵ nạn chính trị ở Mãn Châu, Trung Quốc.
Năm 14 tuổi, Kim Nhật Thành đã truyền bá bài hát “Ái Quốc Ca” (sau này là quốc ca Triều Tiên) để tuyên truyền lòng yêu nước trong cộng đồng lưu vong Triều Tiên, sau đó ông cùng một số kiều dân tỵ nạn Triều Tiên đồng trang lứa ở Mãn Châu thành lập Liên minh Đả đảo Chủ nghĩa Đế quốc vào năm 1926 để phản đối chính sách bành trướng của các siêu cường trên thế giới thời ấy. Tuy nhiên, đó là một tổ chức non yếu, mang tính nghiệp dư và thiếu tính chuyên nghiệp, do những thành viên trong nhóm này còn quá trẻ, nhiệt tình có thừa nhưng trình độ chính trị chưa đủ.
Năm 17 tuổi, Kim Nhật Thành với những tiến bộ nhất định về nhận thức và kiến thức chính trị, ông đã gia nhập Hội Thanh niên Cộng sản Nam Mãn Châu và bị phát xít Nhật tống giam vào năm 1929. Sau khi cùng với các đồng chí vượt ngục thành công, ông tham gia các lực lượng du kích chống Nhật ở vùng Hoa Bắc Trung Quốc. Vào năm 1935, ông gia nhập Quân đội Hỗn hợp kháng Nhật vùng Đông Bắc, một nhóm du kích chống Nhật do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, có cùng một mục tiêu chiến đấu chống quân phiệt Nhật nói riêng và chủ nghĩa phát xít nói chung. Vừa tham gia vào lực lượng này thì Kim Nhật Thành đã chứng tỏ được bản lĩnh chính trị xuất sắc so với lứa tuổi, trẻ tuổi như thế nhưng ông đã được chỉ định làm chính trị viên cho chi đội thứ ba của sư đoàn 2, với khoảng 160 chiến sĩ, ông là chính trị viên trẻ tuổi nhất trong quân đội lúc đó.
Liên Xô đã tôn trọng hiệp ước Moscow ký kết với 4 nước đồng minh là Mỹ, Trung Quốc, Anh, và Pháp vào tháng 12, 1945. Họ rút hết quân về nước vào năm 1948 sau khi các nhóm Triều Tiên kháng Nhật tự lập nên đảng cầm quyền của họ ở Bắc Triều Tiên, và dân chúng phía Bắc Triều Tiên đã tôn vị tướng trẻ của họ lên làm lãnh tụ tối cao. Đó là do Kim Nhật Thành đã đấu tranh chống Nhật từ nhỏ, ông là thần tượng của nhiều người dân Bắc Triều Tiên, và là một “huyền thoại quân sự” trong tâm trí người dân biên giới phía Bắc, nơi mà Kim Nhật Thành đã nhiều lần chỉ huy một đạo quân chỉ có vài trăm người mà đánh thắng nhiều lực lượng thiện chiến của quân Quan Đông Nhật, và là vị tướng trẻ duy nhất lúc đó đánh chiếm được những đồn lính của Nhật quanh vùng biên giới.
Kim Nhật Thành đọc diễn văn trong cuộc tuần hành quy mô ở Bình Nhưỡng tháng 10/1945, chào mừng ông trở về sau cuộc chiến chống phát xít Nhật
Kim Nhật Thành năm 1946
Trong khi ở phía Bắc bán đảo, Liên Xô đã tôn trọng hiệp ước ký với Mỹ, rút hết Hồng quân về nước, thì ngược lại ở phía Nam bán đảo, Mỹ không tuân thủ những điều đã ký kết tại Hội nghị Moscow, âm mưu chia rẽ bán đảo Triều Tiên. Người Mỹ vẫn duy trì thực binh ở Nam Triều Tiên và ủng hộ tiến sĩ Lý Thừa Vãn, một nhà chính trị lão luyện, cao tuổi, đã hoạt động chống Nhật lâu năm theo đường lối ôn hòa, cải lương, với các biện pháp chính trị, tuyên truyền, biểu tình, đấu tranh dân quyền, khai thông dân trí như Gandhi ở Ấn Độ và Phan Châu Trinh ở Việt Nam, và lực lượng của ông.
Với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, lực lượng Lý Thừa Vãn tiến hành bầu cử Quốc hội ở Nam Triều Tiên và hoàn thành Hiến pháp vào ngày 17 tháng 7 năm 1948. Sau đó bầu ra chính phủ theo mô hình chính trị tư bản phương Tây, tuyên bố lập quốc vào ngày 15 tháng 8 năm 1948, thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc.
Trong cuộc bầu cử này "cáo già" Lý Thừa Vãn đã dùng thủ đoạn chính trị đưa Kim Cửu vào danh sách ứng cử viên mà Kim Cửu không hề biết trước, nhưng lại sắp xếp hậu trường giữ cho Kim Cửu không thể thắng. Sau đó Kim Cửu khẳng định mình không hề tham gia vận động tranh cử và không biết gì về việc này, ông ta khẳng định đây là tiểu xảo của Lý Thừa Vãn nhằm mục đích phá hoại hình ảnh của ông, lúc đó vốn đang là đối thủ chính trị bất đắc dĩ của Lý và thường chỉ trích tính cách độc tài, độc đoán của ông ta. Kim Cửu cũng khẳng định ông chưa bao giờ có ý định tham gia tranh cử, vì ông ta kiên quyết chống lại sự phân chia lãnh thổ và chia rẽ dân tộc. Ngoài mưu đồ trên, Lý Thừa Vãn còn muốn lợi dụng tên tuổi, biểu tượng, "thương hiệu" của Kim Cửu để tăng cường trang trí cho cuộc bầu cử, tăng cường trang điểm cho mặt mũi của chính ông ta, rằng ta đây thắng được Kim Cửu.
Phe Lý Thừa Vãn tuyên bố thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc trước đông đảo quần chúng Nam Triều Tiên
"Cáo già" Lý Thừa Vãn
Ngay sau đó, Kim Nhật Thành và Đảng Lao động liền tức tốc tiến hành bầu cử Quốc hội ở Bắc Triều Tiên. Ngày 9, tháng 9, năm 1948, Quốc hội Bắc Triều Tiên họp, thông qua Hiến pháp, bầu ra chính phủ và tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
Chủ tịch Kim Nhật Thành nói chuyện với đông đảo người dân Bình Nhưỡng, tháng 6/1957
Chiến tranh Triều Tiên
Trong thời gian đầu năm 1950, quân đội Triều Tiên và quân đội Hàn Quốc tuần tra quanh khu vực vĩ tuyến 38 đã liên tục nảy sinh những xung đột quân sự, lúc thì quân Triều Tiên vượt ranh giới xâm phạm trước, khi thì quân Hàn Quốc nổ súng trước, vượt làn ranh vào trong lãnh thổ của Triều Tiên và bắn phá vào người Triều Tiên, gây ra nhiều cuộc chạm súng nảy lửa quanh vĩ tuyến 38.
Năm 1950, Kim Nhật Thành bị Trung Quốc từ chối viện trợ và giúp đỡ Triều Tiên tiến hành những biện pháp quân sự để thống nhất Tổ quốc. Trung Quốc không muốn các quốc gia láng giềng của mình, trong đó có Triều Tiên, đủ mạnh mà chỉ muốn giữ cho họ đủ sống trong thoi thóp và vật vờ, phải dựa dẫm vào Trung Quốc, đồng thời muốn sử dụng họ làm một trái độn, một vành đai an ninh, phòng tuyến an toàn, làm một lá chắn để che chở cho Trung Quốc khỏi chủ nghĩa bành trướng quốc tế của Mỹ và phương Tây, bảo vệ an ninh quốc phòng cho Trung Quốc, giữ cho biên giới Trung Quốc được ổn định và giữ một khoảng cách an toàn đối với các thế lực tư bản Mỹ - Tây.
Do không được Trung Quốc tán thành và ủng hộ, Kim Nhật Thành phải hướng về Liên Xô cầu viện. Báo Hồng Kông “Bưu điện Hoa Nam buổi sáng” ngày 25/7/2010 dẫn các hồ sơ lịch sử mới được bạch hóa ở Trung Quốc cho thấy ban đầu, chủ tịch Mao Trạch Đông đã phản đối quyết liệt kế hoạch tấn công Hàn Quốc của Bình Nhưỡng cho tới 6 tuần trước khi nổ ra cuộc Nam tiến, và Mao Trạch Đông chỉ thay đổi chính sách sau ý kiến của Stalin. Sau khi Stalin yêu cầu hỗ trợ, Mao Trạch Đông đã thay đổi quyết định và trở thành người ủng hộ cuộc chiến này.
Theo cuốn sách “Mao Trạch Đông, Stalin và Chiến tranh Triều Tiên” của tác giả Thẩm Chí Hoa dựa trên các tài liệu chính thức, Trung Quốc cũng không được chia sẻ thông tin về kế hoạch tấn công Hàn Quốc của CHDCND Triều Tiên. Ngày 19/1/1950, Kim Nhật Thành nói với đại sứ Liên Xô tại Bình Nhưỡng rằng ông ta có kế hoạch giải phóng Tổ quốc. Được tin đó, Stalin gửi một bức điện với nội dung ủng hộ kế hoạch, nhưng không nói gì với Mao Trạch Đông, lúc này đang thăm Điện Cẩm Linh. Stalin cũng đồng ý viện trợ trong năm 1950 vũ khí và trang thiết bị đã cam kết cho năm 1951, để Kim Nhật Thành có thể tăng thêm 3 sư đoàn, nâng quân đội Bắc Triều Tiên lên 10 sư đoàn. Kim Nhật Thành bảo đảm với Stalin rằng ông ta có thể bình định xong Hàn Quốc trước khi Liên Hiệp Quốc, người Mỹ, và thế giới phương Tây có thời gian cũng như ý định can thiệp.
Mục đích của Stalin là muốn dùng các cảng không bao giờ bị đóng băng là Inchon và Pusan cho hải quân Liên Xô, thay thế cho việc mất cảng Đại Liên (Trung Quốc) mà quân đội Liên Xô đã kiểm soát trong tháng 8/1945. Hồi tháng 3/1949, Moscow và Bình Nhưỡng đã đồng ý xây dựng một tuyến đường sắt nối liền hai nước và vận chuyển hàng hóa qua hai cảng này. Phải đến cuối tháng 4/1950, Kim Nhật Thành mới cử một đặc phái viên hàng đầu đến Bắc Kinh để thông báo cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc về kế hoạch tấn công Hàn Quốc. Mao phản đối mạnh mẽ cuộc chiến, nói rằng ông không thể giúp gì được, phải lo duy trì ổn định tình hình trong nước của Trung Quốc trước tiên, các đồng chí không nên đánh Hàn Quốc, mà chỉ nên "trường kỳ kháng chiến", "trường kỳ mai phục", "việc thống nhất là việc lâu dài, việc tương lai sau này", "cứ để con cháu chúng ta thống nhất, đó là việc mai sau, là việc của các thế hệ sau". Tuy nhiên, Mao cũng chấp thuận cho hàng ngàn người Triều Tiên phục vụ trong hàng ngũ Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trở về phục vụ trong quân đội của Kim Nhật Thành.
Theo đề nghị của Stalin, đích thân Kim Nhật Thành đến Bắc Kinh ngày 13/5/1950 để cố thuyết phục Mao Trạch Đông. Cuộc mật đàm gay gắt kéo dài đến tận đêm mà hai bên vẫn không đạt được thỏa thuận nào. Ngày sau đó, Stalin đã gửi cho Mao Trạch Đông một bức điện nói rằng vì những thay đổi trong trật tự quốc tế, giới lãnh đạo Liên Xô đã thông qua kế hoạch của Bắc Triều Tiên: “Vấn đề này phải được các đồng chí Triều Tiên và Trung Quốc giải quyết. Các đồng chí Triều Tiên sẽ đưa cho ông một thông báo chi tiết về các cuộc trao đổi của họ với chúng tôi”.
Kim Nhật Thành phát động cuộc tấn công vào ngày 25/6/1950 và đã thành công lớn. Nhưng sang tháng 7, Hoa Kỳ dưới ngọn cờ Liên Hiệp Quốc nhảy vào cuộc chiến và đẩy lui các lực lượng Bắc Triều Tiên. Kim Nhật Thành khiếp sợ khi chứng kiến sức mạnh tàn phá hủy diệt ghê gớm của không quân Mỹ mà Bắc Triều Tiên không có cách nào ngăn chặn được. Nhà lãnh đạo này gửi một bức điện tới Stalin, xin được hỗ trợ quân sự mà nếu không từ Liên Xô được thì cũng từ các quốc gia đồng minh khác của Liên Xô.
Không muốn gửi quân và đối mặt với nguy cơ gây chiến cùng Mỹ, Stalin gửi một bức điện cho Mao Trạch Đông: “Theo tình hình hiện nay, nếu Trung Quốc có thể hỗ trợ quân sự cho Bắc Triều Tiên thì 5-6 sư đoàn sẽ là ổn thỏa để tiến tới vĩ tuyến 38. Vai trò của họ sẽ là quân tình nguyện và dĩ nhiên, họ nằm dưới sự chỉ huy của Trung Quốc”. Ngày 1/10/1950, Mao Trạch Đông tổ chức một cuộc họp khẩn Ban Bí thư Trung ương Đảng, bao gồm Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai. “Các ý kiến chia rẽ, nhưng với sự ủng hộ của Chu Ân Lai, quyết định cử quân của Mao Trạch Đông đã thắng”. Được chọn làm chỉ huy quân Chí nguyện Trung Quốc tham gia cuộc chiến “Kháng Mỹ viện Triều”, Bành Đức Hoài tham dự một cuộc họp khác tại Trung Nam Hải vào ngày 4/10/1950. Viên tướng này kể lại: “Bầu không khí rất không bình thường. Sự khác biệt trong các ý kiến là rất lớn. Tôi không thể đưa ra một ý kiến nào”. Ngày 19/10/1950, quân Chí nguyện vượt sông Áp Lục và ngày 25/10 cùng năm, họ đụng độ với các lực lượng LHQ do Mỹ đứng đầu.
Nhà báo Kim Chung, biên tập viên của tờ “Khai phóng” (một tạp chí Hồng Kông chuyên về chính trị Trung Quốc) cũng cho biết: “Mao Trạch Đông ủng hộ cuộc chiến. Ông ta nói rằng chỉ 1,5 người ủng hộ, bao gồm ông ta và Chu Ân Lai ủng hộ một nửa. Tất cả các nhà lãnh đạo khách đều phản đối. Họ cho rằng Trung Quốc vừa kết thúc một cuộc nội chiến dài và đang chịu cảnh bị tàn phá. Giờ là lúc cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông quyết định tham chiến để chiều lòng Stalin, đại ca của phong trào Cộng sản toàn cầu và để bảo đảm sự hỗ trợ của Liên Xô cho Trung Quốc”.
Quân đội Trung Quốc tham gia chiến tranh Triều Tiên được gọi là “quân Chí nguyện” để tránh một cuộc chiến chính thức với Mỹ. Họ đã có những thành công đáng kể trước đối thủ được trang bị tốt nhất và có công nghệ cao nhất thế giới. Đến Giáng sinh năm 1950, quân Trung Quốc đã có thể chiếm lại phần lớn vùng lãnh thổ mà quân đội Bắc Triều Tiên bị đẩy lùi trước đó. Quân đội Trung Quốc đánh chiếm Bình Nhưỡng từ tay Mỹ vào ngày 4/1/1951 nhưng bị đánh bật một lần nữa trong tháng 3. Đến tháng 6, hai bên rơi vào thế giằng co dọc vĩ tuyến 38. Phải mất 2 năm để đạt được thỏa thuận ngừng bắn.
Để chống lại sức mạnh áp đảo của không quân Mỹ, Stalin buộc phải gửi hàng trăm máy bay chiến đấu MiG. Không quân Liên Xô đào tạo các phi công Trung Quốc hoặc dùng phi công của mình mặc quân phục Trung Quốc và nói tiếng Trung để vẫn giả vờ rằng Liên Xô không can thiệp và tránh xung đột trực tiếp với Mỹ.
Nhà sử học Trần Lâm (Trung Quốc) cho rằng động cơ của Mao Trạch Đông khi tham chiến là để thu hút sự chú ý và công nhận Trung Quốc như một cường quốc, đồng thời đoàn kết người dân trong một cuộc chiến yêu nước. Nhà sử học này cũng bình luận: “Kim Nhật Thành đã rất ngạo mạn, tự tin vào sự siêu việt của các trang thiết bị do Liên Xô chế tạo và cho rằng có thể thắng nhanh chóng trước khi bên ngoài can thiệp. Ông ta đã mắc một sai lầm lớn, cũng như tổng tư lệnh Mỹ MacArthur khi cho rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ nhập cuộc. Cả hai đều quá kiêu căng”.
Nhà bình luận Kim Chung thì cho rằng sự can thiệp của Mỹ đã cứu không chỉ Hàn Quốc mà cả Đài Loan: Nếu không có cuộc chiến, Mao Trạch Đông đã dồn sức giải phóng Đài Loan, thống nhất 1 nước Trung Quốc, dùng các làn sóng người làm chiến thuật. Hàng nghìn người sẽ thiệt mạng, nhưng ông ta sẽ thành công. Chiến tranh Triều Tiên đã ngăn cản được điều đó.
Sau khi được Liên Xô và Trung Quốc đồng thuận hậu thuẫn, Kim Nhật Thành và quân đội Triều Tiên tiến hành cuộc "Chiến tranh Giải phóng Tổ quốc", nhằm mục đích thống nhất bán đảo Triều Tiên, hợp nhất hai quốc gia.
Một trong những nguyên nhân dẫn tới quyết định tiến hành giải phóng Nam Triều Tiên là do nhiều chiến dịch khủng bố "Sát Cộng", "Diệt Cộng", "Thánh chiến phản Cộng" vô cùng tàn ác mà chính phủ Lý Thừa Vãn đã tiến hành ở miền Nam Triều Tiên trong suốt giai đoạn 1947 – 1950, mà đỉnh cao là cuộc chôn sống tập thể gần 400 người, trong đó có nhiều phụ nữ, cụ già, trẻ em, thậm chí cả những người đàn bà đang mang thai. Những cuộc thảm sát ở miền Nam Triều Tiên lâu nay bị bưng bít rất kín và chỉ được đưa ra ánh sáng từ năm 2001 đến nay, một số phóng viên có lương tâm trong đài CNN đã đi tiên phong trong việc này.
Tranh vẽ cuộc đại thảm sát Triều Tiên (1951) của họa sĩ nổi tiếng Picasso. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và đã họa lại cuộc thảm sát ghê tởm đó.
Khả năng chính trị hạn chế của Triều Tiên, cộng với ngoại giao kém, tuyên truyền kém, uy tín, tầm vóc của chủ tịch Kim Nhật Thành ở miền Nam lại không được như ở miền Bắc, không huy động nổi một cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam, và sự thiếu quyết tâm và thờ ơ với chính trị của người dân Nam Triều Tiên, khiến cho những phong trào đấu tranh, chống đối ở phía Nam Triều Tiên bị đàn áp và dẹp bỏ dễ dàng. Lực lượng của Bắc Triều Tiên cũng không có cách nào mon men, len lỏi, trà trộn vào được.
Trước sự thất thế trong đấu tranh chính trị và võ lực ở Nam Triều Tiên, Kim Nhật Thành đã quyết định tấn công quy mô, tổng lực, toàn diện, dùng trận địa chiến rộng lớn, triệt để, nhằm thống nhất bán đảo Triều Tiên trước khi quân đội Hàn Quốc trở nên đủ mạnh và chế độ Lý Thừa Vãn trở nên vững nền. Triều Tiên muốn tấn công và chiến thắng thật nhanh trước khi các thế lực bên ngoài đổ quân vào bán đảo.
Cuộc tấn công của quân đội Triều Tiên xảy ra vào sáng sớm ngày chủ nhật 25 tháng 6 năm 1950, họ đã vượt vĩ tuyến 38 và được hậu thuẫn bởi một trận địa pháo bắn phá dữ dội vào phía trước. Được trang bị tốt với gần 15 vạn quân và 240 xe tăng bao gồm 150 xe tăng T-34 do Liên Xô chế tạo, quân đội Triều Tiên bắt đầu cuộc chiến với khoảng 180 máy bay, gồm có 40 máy bay tiêm kích YAK và 70 máy bay ném bom. Riêng hải quân của họ thì trang bị rất kém so với hải quân Mỹ gần đó. Điểm yếu trầm trọng nhất của Triều Tiên là thiếu một hệ thống tiếp vận đáng tin cậy để di chuyển đồ tiếp liệu về miền Nam khi quân đội của họ càng tiến sâu vào lãnh thổ địch. Lực lượng tự vệ của Hàn Quốc yếu hơn rất nhiều, cả về tinh thần chiến đấu lẫn khả năng tác chiến nếu đem so với quân thiện chiến Triều Tiên, do đa số lính Hàn Quốc đều là tân binh mới nhập ngũ, quân đội vừa mới được chính quyền mới xây dựng không bao lâu. Trong khi quân đội Triều Tiên là một quân đội nhà nghề đã có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trực diện với quân Quan Đông của Nhật, với những chiến binh từng phục vụ trong hàng ngũ Tân Tứ quân, Bát Lộ quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, tham chiến chống lại phát xít Nhật, quân Tưởng và quân phiệt, với những sĩ quan cao cấp chuyên nghiệp từng phục vụ trong Hồng quân Công - Nông của Trung Quốc và Hồng quân Liên Xô.
Quân đội Hàn Quốc có khoảng 5 vạn nhưng lúc đó chỉ gồm các vũ khí hạng nhẹ mà Mỹ đã bỏ không dùng từ sau Thế chiến 2. Quân Hàn Quốc không có xe tăng và rất thiếu xe thiết giáp và pháo binh, họ cũng không có máy bay tiêm kích và vũ khí chống tăng.
Cuộc tấn công được Kim Nhật Thành và đồng sự hoạch định tốt với khoảng 15 vạn quân tinh nhuệ và đã đạt được những thành công chớp nhoáng và bất ngờ. Triều Tiên tiến quân theo chiến lược tốc chiến tốc thắng, đánh mau đánh mạnh, với khí thế "sấm sét", đã tấn công bất thần vào một số điểm trọng yếu như Kaesong, Chuncheon, Uijeongbu và Ongjin.
Trong mấy ngày đầu giao chiến, lực lượng Hàn Quốc bị thua sút về quân số, kỹ năng chiến đấu, và vũ khí, thua vừa số lượng vừa chất lượng, quân lực Triều Tiên vừa đông hơn gấp 3 lần vừa có kỹ năng tác chiến cao hơn nhiều. Đa số quân lính Hàn Quốc là tân binh, chưa kinh qua thực chiến và thậm chí chưa được tập luyện gì nhiều trong thao trường. Các sĩ quan mới toanh còn rất trẻ thì chưa có nhiều thời gian nghiên cứu, học hành, cũng như chưa tốt nghiệp học viện quân sự nào. Lúc này Mỹ cũng đã rút quân từ năm 1950, vì không nghĩ Bắc Triều Tiên dám ngang nhiên bất chấp tất cả mà dám tấn công tổng lực vào Hàn Quốc, bất chấp Liên Hiệp Quốc.
Quân binh Hàn Quốc cũng không có chính nghĩa rõ ràng và thường mơ hồ về lòng trung thành với chính thể họ Lý, không có tâm tình chiến đấu, đào ngũ bỏ trốn, tháo chạy toàn bộ, hoặc đào ngũ hàng loạt sang phía Triều Tiên. Khi cuộc tấn công trên bộ tiếp tục, không quân Triều Tiên tiến hành oanh tạc phi trường Kimpo gần Hán Thành (Seoul). Các lực lượng Triều Tiên chiếm được thủ đô Hán Thành trưa ngày 28 tháng 6.
Tuy nhiên, niềm hy vọng của quần chúng Triều Tiên về việc chính phủ Lý Thừa Vãn đầu hàng vô điều kiện, sự giải tán quân đội bệ rạc Hàn Quốc, và sự thống nhất bán đảo, hòa bình lập lại, Triều Tiên không còn tiếng súng, không còn đổ máu tan thành mây khói khi liên quân LHQ do Mỹ cầm đầu can thiệp vào cuộc chiến.
Các lực lượng Liên Hiệp Quốc do Hoa Kỳ dẫn đầu, bao gồm 39 quốc gia tham gia, trong đó có liên quân 15 nước, với sự cung cấp nguồn nhân lực đáng kể từ Khối thịnh vượng chung Anh quốc. Tất cả các lực lượng này đều tham chiến dưới quyền tổng tư lệnh của Thống tướng Douglas MacArthur, một danh tướng lỗi lạc của Hoa Kỳ, một người rất có tài về quân sự. Đây là một cuộc "đánh hội đồng" thật sự.
Sau khi nghe báo cáo về chiến sự toàn diện nổ ra tại Triều Tiên, tổng thống Mỹ Truman ra lệnh cho tướng MacArthur chuyển vũ khí đạn dược đến cho quân đội Hàn Quốc, dùng phương tiện hàng không để di tản những công dân Hoa Kỳ. Truman phát lệnh cho không quân Hoa Kỳ ồ ạt chống lại các lực lượng Triều Tiên, đồng thời ra lệnh cho Hạm Đội 7 bảo vệ đảo Đài Loan. Với hành động đó ông đã xâm phạm vào chủ quyền mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố, càng làm họ "ngứa ngáy tay chân" muốn nhảy vào cuộc chiến.
Sự can thiệp lớn nhất và đầu tiên của quân đội Mỹ là lực lượng Đặc nhiệm Smith, một bộ phận của sư đoàn 24 Bộ binh Hoa Kỳ đóng ở Nhật Bản. Ngày 5 tháng 7, lực lượng này chiến đấu lần đầu tiên ở Osan và bị quân đội Bắc Triều Tiên đánh bại với tổn thất cao. Lực lượng chiến thắng của Bắc Triều Tiên tiến quân về phía nam, và sư đoàn 24 Mỹ với sức mạnh còn phân nửa bị buộc phải tháo chạy về Taejeon, không ngờ nơi đó đã bị Bắc Triều Tiên đánh chiếm từ trước. Tướng William F. Dean không còn cách nào khác ngoài việc buông súng đầu hàng. Ông ta bị bắt trói đem giải đến trước mặt nguyên soái Kim Nhật Thành rồi bị giam giữ.
Vào tháng 8, Quân đoàn 8 Hoa Kỳ bị quân đội CHDCND Triều Tiên đẩy lui vào một vùng nhỏ trong cạnh đông nam của bán đảo Triều Tiên quanh thành phố Pusan. Ngày 20 tháng 8, MacArthur gởi một thông điệp cảnh báo Kim Nhật Thành rằng ông ta phải chịu trách nhiệm cho các hành động chống lại Liên Hiệp Quốc (Mỹ lúc đó vẫn nấp dưới bóng cờ LHQ).
Vào tháng 9, chỉ còn thành phố Pusan (Phú Sơn) - diện tích bằng khoảng 10% bán đảo Triều Tiên – là vẫn chưa thất thủ. Với sự hỗ trợ tiếp vận lớn lao; không quân yểm trợ, và viện quân, các lực lượng của Hoa Kỳ đã giữ vững được phòng tuyến dọc theo sông Nakdong. Hành động bám giữ liều lĩnh này trở thành nổi tiếng tại Hoa Kỳ với tên gọi là “Vành đai Phú Sơn”.
Mặc dù có quân đội thiện chiến Mỹ vào trực tiếp tham chiến, tình thế vẫn trở nên nguy kịch cho chính phủ Lý Thừa Vãn, và hầu như ai cũng cho rằng Kim Nhật Thành và quân Triều Tiên sẽ thành công trong việc thống nhất bán đảo. Tuy nhiên, khả năng thống nhất Triều Tiên đã tan thành mây khói khi Mỹ quyết tâm đổ đại quân vào cuộc chiến.
Không lực Mỹ đến với số lượng lớn, thực hiện 40 phi vụ một ngày trong những hành động hỗ trợ bộ binh, nhắm vào các lực lượng Triều Tiên nhưng cũng gây ra sự tàn phá to lớn đến dân lành vô tội cũng như các công trình dân sự. Các máy bay ném bom chiến thuật (đa số là oanh tạc cơ B-29 có căn cứ ở Nhật) phá hoại lưu thông đường xá và đường xe lửa trong ban ngày, và tàn phá 32 cây cầu rất quan trọng đối với việc di tản của dân thường. Xe lửa dùng cho dân sự phải nằm chờ đợi lúc ban ngày, bên trong các đường hầm.
Khắp nơi trên Triều Tiên, các máy bay ném bom Hoa Kỳ thi nhau đánh bom các kho tiếp liệu chính và phá hủy các nhà máy lọc dầu và hải cảng nhận hàng nhập cảng như tiếp liệu quân sự để làm cạn kiệt lực lượng Triều Tiên. Không lực hải quân cũng tấn công các điểm chuyển vận. Lực lượng Triều Tiên đã bị kéo giãn ra trên toàn bán đảo, và sự tàn phá do bị các máy bay ném bom của Hoa Kỳ gây ra đã ngăn ngừa đồ tiếp liệu cần thiết tới lực lượng Triều Tiên ở phía Nam.
Trong lúc đó, các căn cứ tiếp liệu tại Nhật Bản đưa vũ khí và binh sĩ Mỹ ào ạt vào Phú Sơn. Các tiểu đoàn xe tăng Hoa Kỳ từ thành phố Cựu Kim Sơn (San Francisco) được cấp bách đưa vào Triều Tiên; vào cuối tháng tám, Hoa Kỳ có trên 500 xe tăng loại trung tại vành đai Phú Sơn. Đầu tháng chín, quân đội Mỹ được củng cố mạnh hơn và đông hơn quân Triều Tiên (Mỹ 18 vạn quân so với Triều Tiên 10 vạn quân, sau này quân số của Mỹ lên tới 48 vạn quân ở bán đảo Triều Tiên, chống nhau với 70 vạn quân Trung Quốc). Vào thời điểm đó, Mỹ bắt đầu mở cuộc tổng phản công.
Đối diện với các cuộc tăng viện áp đảo của liên quân, lực lượng Triều Tiên tự nhận thấy mình có quân số ít hơn và có hỗ trợ tiếp liệu yếu kém. Họ cũng thiếu hỗ trợ của không quân và hải quân so với Hoa Kỳ. Để giảm sức ép đối với vành đai Phú Sơn, thống soái MacArthur đã ra lệnh cho một cuộc đổ bộ từ biển vào bờ xa phía sau phòng tuyến của Triều Tiên tại Inchon, một thành phố và là hải cảng lớn ven bờ biển tây của Hàn Quốc, gần Hán Thành.
Thủy triều dữ tợn và sự hiện hữu của một lực lượng quân địch mạnh làm cho cuộc đổ bộ này trở thành một chiến dịch cực kỳ mạo hiểm, vì nếu thất bại thì coi như toàn quân tiêu diệt, tất cả các thành phần thiện chiến, tinh nhuệ, bản lãnh, dũng cảm nhất mới được chọn để thực hiện chiến dịch này. MacArthur bắt đầu hoạch định chiến dịch này vài ngày sau khi chiến tranh khởi sự nhưng Lầu Năm Góc mạnh mẽ bác bỏ kế hoạch này.
Cuối cùng khi ông được phép, MacArthur tập hợp quân đoàn 10 Hoa Kỳ dưới quyền của Tướng Edward Almond gồm có 70.000 quân từ Sư đoàn Thủy quân lục chiến 1 Hoa Kỳ và Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ và tăng phái với 8.600 quân người Hàn và ra lệnh cho họ đổ bộ tại Inchon trong chiến dịch Chromite. Vào lúc tấn công đổ bộ ngày 15 tháng 9, nhờ vào thám báo của các gián điệp Hàn Quốc, sự cố tình tạo ra thông tin sai lạc và các cuộc pháo kích kéo dài trước khi đổ bộ, thêm vào đó lực lượng Triều Tiên có rất ít quân đóng tại Inchon nên lực lượng Hoa Kỳ chỉ gặp sự chống trả yếu ớt khi họ đổ bộ lên Inchon. Cuộc đổ bộ là một chiến thắng quyết định khi quân đoàn 10 tiến công tràn ngập quân phòng thủ ít hơn và đe dọa bao vây quân đội chính quy của Triều Tiên.
MacArthur nhanh chóng chiếm được Hán Thành. Quân Triều Tiên gần như bị cắt đứt, nhanh chóng rút lui về phía Bắc; khoảng 25.000 đến 30.000 quân phải quay trở lại. Quân đội Mỹ đẩy lui quân Triều Tiên ngược qua vĩ tuyến 38.
Sau đó với lòng tham không đáy, quân lực Mỹ vượt vĩ tuyến 38 tiến quân đánh thẳng vào Bắc Triều Tiên. Sự kiện này đánh dấu khoảnh khắc quan trọng trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ khi các nhà lãnh đạo Mỹ quyết định đi xa hơn là chỉ đơn thuần "ngăn chặn cộng sản”. Các vấn đề khác gồm có tác dụng tâm lý về việc tiêu diệt được một quốc gia theo XHCN và kiểm soát khu vực Đông Bắc Á và đối trọng với Trung - Xô.
Quân đội Mỹ vượt ranh giới vào xâm lấn CHDCND Triều Tiên đầu tháng 10 năm 1950. Quân đoàn 10 Hoa Kỳ đổ bộ từ biển vào bờ tại Wonsan và Iwon. Các lực lượng còn lại của Hoa Kỳ sát cánh với quân đồng minh tiến quân phía bờ tây của Triều Tiên và xâm chiếm được Bình Nhưỡng ngày 19 tháng 10. Vào cuối tháng 10, quân đội Triều Tiên nhanh chóng tan rã, Kim Nhật Thành và bộ chính trị Đảng Lao động Triều Tiên phải thành lập chính phủ lưu vong ở Mãn Châu, Trung Quốc. Lực lượng liên quân đại thắng, tha hồ bắn giết và bắt được hơn 135.000 tù binh.
Hành động vượt vĩ tuyến 38 tấn công tổng lực vào Bắc Triều Tiên của Mỹ đã gây quan ngại lớn cho Trung Quốc. Họ lo rằng sự phiêu lưu quân sự của Mỹ sẽ không dừng lại ở sông Áp Lục, biên giới Triều Tiên - Trung Quốc, mà sẽ mở rộng chiến tranh vào lãnh thổ Trung Quốc. Nhiều người phương Tây bao gồm tướng MacArthur lúc ấy nghĩ rằng mở rộng chiến tranh vào Trung Quốc là điều cần thiết. Tuy nhiên, tổng thống Mỹ Truman và những nhà lãnh đạo Âu - Mỹ khác không đồng ý, và MacArthur được lệnh là phải hết sức cẩn trọng khi tiến tới gần biên giới Trung Hoa.
Nhưng dần dần do thực tiễn phát sinh nhiều vấn đề mới, “tướng ở sa trường không nhất thiết phải làm theo lệnh vua”, MacArthur không còn quan tâm đến lệnh của Truman nữa và cho rằng do Triều Tiên được tiếp tế qua các căn cứ bên trong Trung Hoa cho nên các căn cứ đó phải bị dội bom phá hủy.
Trung Quốc cảnh cáo Hoa Kỳ hãy dừng lại, và tuyên bố rằng nếu Mỹ tiến thêm bước nữa thì họ sẽ can thiệp quân sự để bảo vệ an ninh quốc gia. Chính phủ Mỹ xem những lời cảnh báo này chỉ là "muốn hù dọa Liên Hiệp Quốc" mà thôi và không coi trọng lắm. Ngày 15 tháng 10 năm 1950, Truman đến đảo Wake để họp ngắn ngủi với MacArthur. CIA Hoa Kỳ trước đây có cho Truman biết rằng việc CHND Trung Hoa nhảy vào cuộc chiến là “không thể nào”. MacArthur cũng cho rằng rằng ít có khả năng xảy ra một cuộc chiến với Trung Hoa. MacArthur ước tính Trung Hoa có vòng quanh 30 vạn quân tại Mãn Châu với khoảng từ 10 đến 12 vạn quân dọc theo sông Áp Lục; phân nửa quân số đó có thể vượt qua sông Áp Lục. Nhưng Trung Hoa không có lực lượng không quân, vì thế "nếu Trung Quốc cố tràn xuống Bình Nhưỡng thì sẽ có một cuộc đại tàn sát đối với chúng." MacArthur đã nhận định như vậy.
Ngày 8 tháng 10 năm 1950, ngày hôm sau khi quân đội Hoa Kỳ vượt vĩ tuyến 38 xâm lược Bắc Triều Tiên và gián tiếp xâm phạm đến an ninh quốc phòng của biên giới Trung Quốc, Mao Trạch Đông phát lệnh tập kết "Chí nguyện quân Trung Hoa" (thực tế chính là quân chính quy Trung Quốc). Ông ra lệnh quân đội di chuyển đến sông Áp Lục dưới sự tổng chỉ huy của danh tướng, thống soái Bành Đức Hoài, sẵn sàng vượt sông.
Mao Trạch Đông điên tiết vì Liên Xô "xúi dại" mình giúp Bắc Triều Tiên đánh Nam Triều Tiên, để sự việc trở thành tồi tệ như thế này, "hư bột hư đường" và nhiều khả năng sẽ "mất cả chì lẫn chài", nên cồ tìm cách "ăn vạ" với Liên Xô và yêu cầu Hồng quân can thiệp vào cuộc chiến, xem đó là một hành động tự vệ cần thiết, một nghĩa vụ quốc tế cao cả của gia đình XHCN.
Mao nói với Stalin: "Nếu chúng ta để cho Hoa Kỳ chiếm đóng toàn Triều Tiên... chúng ta phải chuẩn bị chờ Hoa Kỳ tuyên chiến với Trung Hoa, các ngài cũng không yên." Sau đó thủ tướng Chu Ân Lai đích thân đến Nga để “du thuyết” và giúp tăng thêm cường độ cho những lý lẽ qua điện thoại và thơ từ của Mao Trạch Đông. Trung Quốc trì hoãn các chiến dịch quân sự trong lúc chờ đợi sự tăng viện lớn từ Liên Xô, hủy bỏ những cuộc tấn công đã lên kế hoạch từ 13 tháng 10 đến 19 tháng 10.
Tuy nhiên, sự giúp đỡ của Liên Xô chỉ giới hạn cung cấp yểm trợ bằng không quân không quá 60 dặm Anh (100 km) từ mặt trận. Nhưng các phi cơ Mig-15 hiện đại của Nga là một sự thách thức nghiêm trọng đối với quân lực Hoa Kỳ. Tại một khu vực có biệt danh là "Hành lang Mig", các phi cơ của Nga giữ ưu thế trên không phận địa phương hơn đối thủ với các phi cơ F-80 do Hoa Kỳ chế tạo như Lockheed F-80 Shooting Stars cho đến khi các phi cơ F-86 (North American F-86 Sabre) được khai triển.
Người Trung Hoa rất giận dữ trước việc giúp đỡ dè dặt, thiếu nhiệt tình của Liên Xô vì họ cứ đinh ninh rằng họ đã được hứa cung ứng yểm trợ không lực toàn diện. Hoa Kỳ biết rõ vai trò của Liên Xô nhưng vẫn giữ im lặng để tránh leo thang chiến tranh.
Quân đội Trung Hoa đối mặt với quân đội Hoa Kỳ ngày 25 tháng 10 năm 1950, ban đầu với 27 vạn quân (sau này trong thời điểm cao nhất là 70 vạn quân, tổng số quân Tàu tham chiến ở Bắc Triều Tiên là gần 100 vạn quân, con số kỷ lục) dưới quyền tổng tư lệnh của danh tướng Bành Đức Hoài khiến cho Mỹ bị bất ngờ vì không lường trước được Trung Hoa có thể huy động mức độ quân số đông đảo đến như vậy ngay từ đầu, trái với mọi dự tính của danh tướng MacArthur. MacArthur chỉ tính đến những đơn vị Trung Hoa ở gần biên giới Triều Tiên, ông ta không ngờ nguyên soái Bành Đức Hoài lại tập trung đại quân một cách bí mật và siêu tốc đến vậy, không ngờ khả năng bảo mật thông tin lạc hậu của Trung Quốc lại hiệu quả đến thế. Trong cuộc đấu trí quân sự ngoạn mục giữa hai đại danh tướng, MacArthur đã thua Bành Đức Hoài ván này, sau khi đã chiến thắng Kim Nhật Thành trong "hiệp 1".
Tuy nhiên, quân đội chuyên nghiệp Hoa Kỳ, vốn từng vào sinh ra tử trên khắp chiến trường thế giới trong Thế chiến 2 chống phát xít, với vũ khí cá nhân tối tân, binh sĩ thao luyện kỹ, kỹ năng chiến đấu cá nhân cao và khả năng tác chiến tập thể tốt, vũ khí chiến lược và chiến thuật hiện đại, nên sau bất ngờ ban đầu họ đã lập tức trở về trạng thái bình thường và nhanh chóng lấy lại ưu thế.
Sau những vụ đụng độ sau đó, Bành Đức Hoài thấy quân mình lép vế, hao tổn nhiều sinh lực và thất bại trong những trận giáp chiến xáp lá cà khi những quân lính người Hoa nhỏ con, gầy ốm, xanh xao, thiếu ăn phải đánh xáp lá cà trong một phạm vi hẹp với những chiến binh người Mỹ đô con, to cao, lực lưỡng, được luyện tập võ thuật chu đáo, và với các vũ khí cá nhân tốt, nên đã quyết định rút lui vào trong vùng rừng núi.
Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc lại xem sự rút lui của này như là một dấu hiệu yếu thế và đánh giá sai lầm trầm trọng khả năng tác chiến của Giải phóng quân Trung Quốc. Thế nên các lực lượng Hoa Kỳ tiếp tục tiến công về sông Áp Lục không đếm xỉa gì đến những lời cảnh cáo của Trung Hoa.
Tình báo Hoa Kỳ sơ sài trong suốt giai đoạn này vì nhiều lý do, đã hoạt động không hiệu quả tại Bắc phần Triều Tiên cũng như đã từng không hữu hiệu tại Nam phần Triều Tiên trong những ngày có cuộc bao vây tại Vành đai Pusan.
Lính Trung Quốc hành quân bằng cách đi bộ và ngủ trong rừng nên giảm thiểu tối đa sự phát hiện của đối phương. Trong một trường hợp có ghi chép kỹ càng, một quân đoàn của TQ gồm có ba sư đoàn hành quân bằng chân đất từ An Tung ở Mãn Châu, phía Bắc cách sông Áp Lục khoảng 286 dặm (460 km) đến nơi tập kết tại Triều Tiên trong khoảng một thời gian dài từ 16 đến 19 ngày. Một sư đoàn của quân đoàn này hành quân vào ban đêm trên những con đường núi ngoằn ngoèo, trung bình đi được 18 dặm (29 km) một ngày trong vòng 18 ngày.
Cuộc hành quân trong ngày bắt đầu từ sau khi chập tối lúc 19 giờ và kết thúc lúc 3 giờ sáng hôm sau. Những phương án trú ẩn chống phi cơ phải hoàn thành trước 5 giờ 30 sáng. Tất cả mọi người, thú vật và các trang bị được giấu đi hay ngụy trang. Trong ban ngày chỉ có các nhóm trinh sát được ngụy trang di chuyển về phía trước để chọn lựa khu đóng quân ngoài trời của ngày hôm sau. Khi các đơn vị của Trung Hoa bắt buộc phải hành quân vào ban ngày vì bất cứ lý do gì, họ luôn tuân thủ lệnh dừng lại ngay tại chỗ và không cử động khi có phi cơ xuất hiện trên đầu. Các sĩ quan có quyền bắn bỏ bất cứ binh sĩ nào vi phạm lệnh này.
Bản đồ trận Hồ nước Chosin
Cuối tháng 11, quân Trung Hoa đánh vào phía Tây, dọc theo sông Chongchon, và hoàn toàn tràn ngập một số sư đoàn Hoa Kỳ và thành công gây một đòn chí tử vào sườn các lực lượng còn lại của các lực lượng đồng minh. Sự bại trận của Quân đoàn 8 Hoa Kỳ tạo nên một cuộc rút lui dài nhất của một đơn vị quân sự Hoa Kỳ trong lịch sử.
Tại miền Đông, trong trận Hồ nước Chosin, một đơn vị 3 vạn người của Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ cũng chưa chuẩn bị kịp cho những cuộc tấn công chiến thuật của quân đội Trung Quốc, chẳng bao lâu Mỹ bị bao vây, mặc dù cuối cùng họ phá được vòng vây nhưng bị thương tổn khoảng 15.000 quân. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ vốn rất thiện chiến đã bị đánh tan tác tại trận này và phải rút lui, tuy nhiên họ cũng đã gây thiệt hại nặng nề cho 6 sư đoàn CHND Trung Hoa.
Trong khi các binh sĩ Trung Hoa ban đầu thiếu yểm trợ của hỏa lực nặng và vũ khí bộ binh hạng nhẹ, chiến thuật của họ nhanh chóng điều chỉnh thích hợp cho sự bất lợi này như Bevin Alexander có giải thích trong cuốn sách của ông có tựa đề là "How Wars Are Won" (Cách thế nào để thắng các cuộc chiến tranh) :
Phương cách thông thường là xâm nhập các đơn vị nhỏ của địch từ một trung đội 50 người đến một đại đội 200 người, bằng cách phân tán thành nhiều nhóm riêng lẻ. Trong lúc một đội cắt đường rút lui của người Mỹ, các đội khác đánh thẳng cả mặt trước và hai bên sườn trong các cuộc tiến công phối hợp nhịp nhàng. Các cuộc tiến công tiếp tục vào các phía cho đến khi những người phòng thủ bị tiêu diệt hoặc bắt buộc phải rút lui. Người Trung Hoa bò lên phía trước đến sườn mở nơi đóng chốt của trung đội kế tiếp và lập lại chiến thuật này.
Roy Appleman làm sáng tỏ hơn các chiến thuật ban đầu của Trung Hoa như sau:
Trong giai đoạn đầu tiến công, các lực lượng bộ binh thiện chiến nhẹ đã thực hiện các cuộc tấn công của Trung Hoa, nói chung không được yểm trợ với bất kỳ loại vũ khí hạng nặng nào ngoài súng cối (mortars). Các cuộc tấn công đã chứng minh rằng binh sĩ Trung Hoa là những chiến binh có kỷ luật và được huấn luyện kỹ lưỡng, và đặc biệt lão luyện trong chiến đấu về đêm. Họ có tài về nghệ thuật ngụy trang. Các đội trinh sát rất thành công đáng kể trong việc phát hiện các vị trí của các lực lượng Liên Hiệp Quốc. Họ hoạch định các cuộc tấn công vào phía sau lưng của các lực lượng này, cắt đường rút lui và đường tiếp vận của quân địch, và rồi sau đó xung trận đánh vào mặt trước và bên sườn để kết thúc trận chiến. Họ cũng áp dụng một chiến thuật gọi là Hachi Shiki tạo thành một đội hình chữ V mà họ để cho quân địch di chuyển trong đó; hai cạnh của chữ V sau đó được khép lại quanh quân địch trong khi đó một lực lượng khác di chuyển phía dưới miệng chữ V để đón chặn bất cứ lực lượng nào cố giải vây cho đơn vị bị bao vây. Các chiến thuật như thế của Trung Quốc đã được sử dụng với những thành công to lớn tại Onjong, Unsan, và Ch'osan, nhưng chỉ thành công một phần tại Pakch'on và Ch'ongch'on.
Lực lượng Hoa Kỳ tại vùng Đông Bắc Triều Tiên, từng tiến công chớp nhoáng chỉ một vài tháng trước đây, bị bắt buộc phải nhanh chân hơn nữa rút về miền Nam để hình thành một vành đai phòng thủ quanh thành phố hải cảng Hungnam nơi mà sau đó một cuộc di tản lớn được thực hiện cuối tháng 12 năm 1950.193 lượt tàu chở các quân nhân Mỹ và trang thiết bị đã rời bến di tản khỏi Bến cảng Hungnam. Khoảng 10 vạn binh sĩ, 17.500 xe các loại, và 350.000 tấn tiếp liệu được tàu chở đến Pusan trong vòng trật tự. Khi họ đã bỏ đi, các lực lượng Mỹ đã thiêu hủy, san bằng thành phố, và phá hủy tất cả không cho quân đội Trung Quốc sử dụng. Hành động tàn bạo này đã khiến nhiều dân lành trở thành vô gia cư và không có nơi trú thân trong mùa đông, làm nhiều thường dân phải chết cóng.
Tháng giêng năm 1951, Bành nguyên soái lại đánh mạnh trong giai đoạn tiến công thứ ba (được biết với tên gọi Cuộc Tổng tấn công mùa đông). Quân Trung Hoa sử dụng lại các chiến thuật trước đây của họ là tấn công chủ yếu vào ban đêm với cách đánh thăm dò từ các vị trí xa mặt trận theo sau là một đợt xung phong với số lượng quân áp đảo, và dùng kèn, cồng chiêng để liên lạc và đánh lạc hướng quân địch. Kết hợp giữa chiến thuật biển người, tiền pháo hậu xung, nghi binh, đánh úp, đánh trộm, và quấy rối thường xuyên, tập kích trong khi lực lượng Liên Hiệp Quốc đang ngủ ban đêm, dùng loa la ó hò hét tuyên truyền và kêu gọi đầu hàng, quấy rối không cho các lực lượng LHQ ngủ, nghỉ. Mặc dù không thành công trong các mưu kế dụ địch vào địa điểm phục binh, nhưng các chiến thuật tác chiến khác của Bành Đức Hoài đã phát huy hiệu quả rất tốt. Quân đội Mỹ không có thuốc trị cho những chiến thuật này, và sức kháng cự của họ sa sút nên họ rút lui nhanh về miền Nam. Thủ đô Hán Thành bị bỏ lại và bị đại binh Trung Quốc chiếm đóng vào ngày 4 tháng 1 năm 1951.
Khó khăn thêm gia tăng cho Quân đoàn 8 Hoa Kỳ khi tướng Walker bị tử trận. Trung tướng Matthew Ridgway, một người hùng và là một cựu chiến binh nhảy dù trong Thế chiến 2 lên thay thế và nhanh chóng từng bước nâng sĩ khí và tinh thần chiến đấu của Quân đoàn 8 vốn đang kiệt quệ và sa sút trong cuộc rút lui chiến thuật. Tuy nhiên tình thế quá bi quan đến nỗi tướng Douglas MacArthur kêu gào hăm dọa sử dụng vũ khí hạt nhân chống Bình Nhưỡng và Bắc Kinh, dọa sẽ biến Mãn Châu thành tro bụi, những lời đe dọa này của tướng MacArthur gây nhiều báo động cho quốc tế. Liên Xô và Trung Quốc lập tức bám vào những lời tuyên bố kém chính trị của MacArthur, nhắc lại việc Mỹ dội bom nguyên tử xuống Nhật và dọa sẽ đưa Mỹ ra tòa án quốc tế vì tội ác chiến tranh diệt chủng và tội ác chống loài người, và dọa họ nhất địnhh sẽ làm vậy nếu Mỹ còn dám có ý nghĩ về việc dùng vũ khí hạt nhân. Sau này những người lãnh đạo Hoa Kỳ bào chữa rằng đó chỉ là chiến tranh tâm lý chứ MacArthur không có ý định sử dụng bom hạt nhân, và đó chỉ là ý kiến riêng của cá nhân MacArthur chứ không phải là quan điểm chung của chính phủ chúng tôi.
Quân đội Mỹ tiếp tục tháo lui cho đến khi họ tới phòng tuyến chạy dài từ phía Nam Suwon ở miền Tây, Wonju ở giữa, và phía Bắc Samchok ở miền Đông là nơi mặt trận được ổn định. Quân Trung Hoa đã bỏ xa đường tiếp vận của họ và bắt buộc phải lùi lại. Quân Trung Hoa gặp khó khăn khi tiến ra xa khỏi Hán Thành vì họ đang ở cuối đường vận chuyển tiếp liệu, tất cả lương thực và đạn dược phải được vận chuyển vào ban đêm bằng chân hoặc xe đạp từ sông Áp Lục.
Cuối tháng giêng, sau khi nhận thấy các phòng tuyến phía trước lực lượng Hoa Kỳ bị bỏ hoang, tướng Ridgway ra lệnh tiến hành thám thính mà sau đó biến thành một cuộc tiến công toàn diện có tên gọi là "Operation Roundup" (Chiến dịch Bố ráp). Chiến dịch được hoạch định tiến hành từng bước một, lợi dụng ưu thế hỏa lực trên mặt đất và nhất là trên không của Mỹ. Vào lúc kết thúc Chiến dịch Bố ráp vào đầu tháng hai, quân Mỹ đã tiến tới sông Hán và tái chiếm Wonju.
Trung Quốc phản công vào giữa tháng hai bằng cuộc tiến công giai đoạn 4 từ Hoengsong ở miền Trung chống các vị trí của Quân đoàn 9 Hoa Kỳ quanh Chipyong-ni. Các đơn vị của sư đoàn 2 Bộ binh Hoa Kỳ, gồm có tiểu đoàn Pháp tại Triều Tiên đã đánh trả một cuộc bao vây ngắn ngủi nhưng dữ dội và cuối cùng phá vỡ cuộc tiến công này. Trong trận đánh này, Mỹ và đồng minh đã học được cách đối phó với các chiến thuật tấn công của Trung Quốc và có thể giữ vững trận địa, do đó họ đã chống trả rất dũng cảm.
Chiến dịch Bố ráp được theo sau trong hai tuần cuối của tháng hai năm 1951 bằng Chiến dịch Sát thủ (Operation Killer) do Quân đoàn 8 của Hoa Kỳ đảm nhiệm, họ chiến đấu rất hung hãn. Đây là một cuộc tiến công toàn diện ngang qua mặt trận, lần nữa được hoạch định tăng cường tối đa hỏa lực với mục đích gây thiệt hại nặng nề cho các quân đoàn Triều Tiên và Trung Hoa. Vào cuối Chiến dịch Sát thủ, Quân đoàn 1 Hoa Kỳ đã tái chiếm lại được tất cả các lãnh thổ phía Nam sông Hán, trong khi Quân đoàn 9 tái chiếm Hoengsong, đánh bại Bành Đức Hoài và quân Trung Quốc.
Ngày 7 tháng 3 năm 1951, Quân đoàn 8 Hoa Kỳ lại thọc mạnh về phía trước trong Chiến dịch Ripper, và vào ngày 14 tháng 3 họ đã đẩy lui quân đội Trung Hoa ra khỏi thủ đô Hán Thành (Seoul), đây là lần thứ tư trong một năm thành phố này đổi chủ. Hán Thành ở trong cảnh hoang tàn đổ nát; dân số của thành phố trước chiến tranh là 1,5 triệu người đã giảm xuống còn 200.000 người và thiếu thực phẩm trầm trọng.
Sau khi đánh bại quân Trung Hoa chiếm lại Hán Thành, gây tổn thương nặng nề cho Trung Quốc, Douglas MacArthur trở nên kiêu căng, ngạo mạn, lớn lối, cực đoan hơn, phát biểu thêm nhiều lộng ngôn kém chính trị, gây hại cho hình ảnh nước Mỹ và chính phủ, sự khác biệt, bất đồng, mâu thuẫn, bất mãn với chính quyền trung ương Mỹ và tổng thống Truman ngày càng sâu, không muốn nghe lệnh chính phủ trung ương mà chỉ muốn độc đoán tự quyết định, có dấu hiệu lộng quyền, trở thành một vị tướng bất trị, một con ngựa bất kham, nên đã bị tước quyền tư lệnh bởi Truman ngày 11 tháng 4 năm 1951 vì tội “bất tuân thượng lệnh”.
Quyết định bất ngờ và khó hiểu này của tổng thống Mỹ ngay trong lúc quân Mỹ đang trên đà chiến thắng đã gây tranh cãi rất nhiều và gây ra một làn sóng phản đối và mâu thuẫn nội bộ trong chính quyền và giới chức quân sự Hoa Kỳ. Cuộc đụng độ lịch sử giữa 2 vị tướng lừng danh đã trở thành một quả đắng cho tướng MacArthur. Trong cuộc thi thố tài năng quân sự, đọ trí đấu mưu, Bành Đức Hoài đã thắng MacArthur. Sau khi MacArthur bị tước quyền hành và bắt phải về nước, Bành Đức Hoài vui mừng ra mặt, nói với các đồng chí của ông đại ý: Truman ngốc thật, Nhạc Phi đã bị hoàng đế triệu về, để xem cách nào chúng nó thắng chúng ta được đây.
Nhưng Bành Đức Hoài đã vui mừng quá sớm, sau khi loại được MacArthur, Bành và giới quân sự Trung Quốc trở nên chủ quan. Họ không biết Tư lệnh tối cao mới, tướng Ridgway cũng là một tường có nhiều quân công, chiến tích trong Thế chiến 2 chống phe Trục, biết cách động viên và thu phục lòng trung thành, cống hiến của quân đội, được nhiều chuyên gia Hoa Kỳ xem là một nhà quân sự có tài ngầm (underate), thực tài có lẽ không thua kém MacArthur bao nhiêu. Ông ta tiến hành củng cố quân đội Mỹ và các đàn em để chuẩn bị cho một loạt các cuộc phản công hiệu quả. Tư lệnh Quân đoàn 8 được chuyển qua cho tướng James Van Fleet thống lãnh.
Một loạt các cuộc tấn công sau đó từ từ đẩy lui quân đội Trung Quốc như các chiến dịch Courageous và Tomahawk, một cuộc công kích kết hợp giữa lục quân và không quân đã vây hãm quân đội CHND Trung Hoa giữa Kaesong và Seoul. Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục thừa thắng xông lên cho đến khi họ tới được phòng tuyến Kansas, cách vĩ tuyến 38 một khoảng mấy dặm về phía Bắc.
Tuy nhiên quân đội Bành Đức Hoài khó thể bị đánh bại. Tháng tư năm 1951 họ mở đợt tiến công giai đoạn năm. Đây là một nỗ lực chính có sự tham dự của 3 quân đoàn, tổng cộng lên đến 70 vạn quân. Quả đấm thôi sơn giáng thẳng vào Quân đoàn 1 Hoa Kỳ nhưng sự chống trả dũng mãnh trong các trận đánh tại sông Imjin và Kapyong đã làm chậm lại tiến trình, quân Tàu bị chặn đứng ở phòng tuyến phía Bắc Seoul.
Một cuộc tiến công của Trung Quốc sau đó ở Trung phần Triều Tiên, chống Quân đoàn 10 Hoa Kỳ và lực lượng Liên Hiệp Quốc vào ngày 15 tháng 5 cũng đạt được những thành công ban đầu, nhưng vào 20 tháng 5 cuộc tấn công phải ngừng lại. Quân đoàn 8 Hoa Kỳ phản công mạnh và đến cuối tháng 5 thì chiếm lại phòng tuyến Kansas. Liên Hiệp Quốc, Mỹ và đồng minh quyết định dừng lại ở phòng tuyến Kansas, nằm ở phía Bắc vĩ tuyến 38.
Lãnh thổ đổi chủ trong phần đầu của cuộc chiến cho đến khi mặt trận được ổn định
Phần còn lại của cuộc chiến bao gồm chút ít sự thay đổi về lãnh thổ, các cuộc oanh tạc tầm mức rộng lớn vào lãnh thổ CHDCND Triều Tiên và dân cư của họ, và các cuộc thương thuyết hòa bình kéo dài bắt đầu từ 10 tháng 7 năm 1951 tại Kaesong giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Thậm chí trong suốt các cuộc thương thuyết hòa bình, chiến sự vẫn tiếp tục, hai bên vẫn "vừa đánh vừa đàm".
Mao Trạch Đông cố mở các chiến dịch quân sự nhằm thử quyết tâm của Truman xem có dám tiếp tục cuộc chiến. Các cuộc đụng độ quân sự chính yếu trong giai đoạn này là những hành động quanh lòng chảo phía đông như Bloody Ridge và Heartbreak Ridge năm 1951, các trận đánh như Trận Old Baldy ở giữa và Trận Hook ở phía Tây trong suốt năm 1952–53, Trận Đồi Eerie năm 1952, và Trận Đồi Pork Chop năm 1953.
Tháng 10 năm 1951, Hoa Kỳ tiến hành chiến dịch Cảng Hudson với ý định thiết lập khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Một số phi cơ B-29 thực hiện các phi vụ tập ném bom giả từ Okinawa đến Triều Tiên mang theo các quả bom hạt nhân "hình nộm" hoặc các loại bom thông thường hạng nặng. Chiến dịch được điều hợp từ Căn cứ Không quân Yokota tại Nhật Bản. Cuộc tập trận này có ý định thử chức năng thật sự của tất cả các hoạt động sẽ cần dùng trong một tấn công bằng vũ khí hạt nhân, bao gồm việc lắp ráp vũ khí và thử nghiệm, hướng dẫn, kiểm soát mặt đất về mục tiêu ném bom. Kết quả cho thấy bom hạt nhân không hiệu quả như là tiên đoán bởi vì việc phát hiện số đông lực lượng địch kịp thời thì quả là hiếm hoi. Việc này đã làm cho dư luận thế giới lên án Mỹ. Sau này các sử gia vẫn tranh cãi liệu đây là ý định thật của Mỹ hay chỉ là trò chơi tâm lý chiến để răn đe Trung Quốc, Liên Xô, và khối cộng sản.
Trong cuốn "The Origins of the Korean War" xuất bản vào các năm 1981, 1990, sử gia người Mỹ Bruce Cummings cho biết rằng trong một cuộc họp báo ngày 30 tháng 11 năm 1950, những lời ám chỉ tấn công bằng vũ khí hạt nhân của Tổng thống Truman là lời đe dọa dựa trên kế hoạch bất ngờ sử dụng bom hạt nhân, chớ không phải lỡ lời như nhiều người lầm tưởng. Ngày 30 tháng 11 năm 1950, Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược của Không quân Hoa Kỳ được lệnh gia tăng khả năng của mình, và sự gia tăng này gồm có khả năng nguyên tử.
Vào ngày 29 tháng 11 năm 1952, tổng thống mới đắc cử là Dwight D. Eisenhower đã thực hiện lời hứa lúc tranh cử là đến Triều Tiên để tìm ra giải pháp để kết thúc cuộc chiến trong danh dự. Với việc chấp thuận lời đề nghị ngưng bắn của Ấn Độ, một cuộc ngưng bắn được thiết lập vào ngày 27 tháng 7 năm 1953 vào thời điểm tuyến đầu mặt trận quay trở lại quanh vĩ tuyến 38, và vì vậy một vùng phi quân sự được thiết lập quanh đó, được quân đội Trung Quốc phòng thủ một phía và phía bên kia là quân đội Hoa Kỳ.
Nơi có các cuộc thương thảo hòa bình, Kaesong, cố đô của Triều Tiên, là phần đất của Hàn Quốc trước khi chiến sự bùng nổ nhưng nay là một thành phố đặc khu của CHDCND Triều Tiên. Nhiều lãnh thổ khác trước chiến tranh thuộc Bắc Triều Tiên, sau chiến tranh lại thuộc Nam Triều Tiên. Cho đến ngày nay vẫn không có một hiệp ước hòa bình nào được ký kết, về mặt kỹ thuật và pháp lý, Đại Hàn Dân Quốc và CHDCND Triều Tiên vẫn còn đang trong tình trạng chiến tranh, mặc dù hai bên đã ký kết Hiệp ước Đình chiến.
Tội ác của Mỹ - Hàn đối với thường dân hai miền Triều Tiên
Theo nhiều người Mỹ, phương Tây, và Hàn Quốc thừa nhận, Hoa Kỳ và Hàn Quốc đã hành quyết tập thể hàng chục ngàn tù nhân cánh tả và những người thân cộng trong những sự kiện như vụ tàn sát tập thể tù nhân chính trị của nhà tù Daejeon và cuộc thảm sát tập thể đẫm máu trong vụ “Nổi dậy Cheju”. Gregory Henderson, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ tại Triều Tiên vào thời điểm đó, đưa ra con số tổng cộng là trên 100.000 nạn nhân, và xác chết của họ bị quăng vào các hố chôn tập thể. Gần đây, Ủy ban Hòa giải và Tìm sự thật, một hội đoàn phi chính phủ và hoạt động độc lập của những người yêu nước ở Hàn Quốc đã nhận được các báo cáo của hơn 7,800 vụ tàn sát dân sự trong 150 địa điểm khắp bán đảo do quân đội Mỹ gây ra. Và những nơi các vụ tàn sát dân sự tập thể xảy ra trước, trong, và sau cuộc chiến. Trong nhiều trường hợp khác, quân đội Hàn Quốc cũng đã cho phá hủy một số cây cầu có đông nghẹt các thường dân đang bỏ chạy, giết chết tất cả người trên cầu.
Trên đường thua chạy, Lý Thừa Vãn do thiếu quân đã tiến hành bắt lính, sung quân cấp tốc và bắt buộc tất cả người dân chung quanh nhập ngũ ngay để bổ sung. Có lúc quân đội Mỹ được lệnh xem bất cứ thường dân Triều Tiên nào hiện diện gần mặt trận là thù địch, và được lệnh "vô hiệu hóa" (giết) họ ngay lập tức. Việc này đưa đến nhiều vụ thảm sát giết chóc bừa bãi hàng ngàn dân thường Nam Triều Tiên bởi quân lính Hoa Kỳ, tại nhiều nơi, quân đội Mỹ - Hàn đem việc bắn giết thôn dân làm trò tiêu khiển, mà đỉnh cao là cuộc Thảm sát tắm máu No Gun Ri trong đó nhiều người không có khả năng tự vệ - đa số là phụ nữ, trẻ con và người già - nhiều người đàn bà và bé gái đã bị quân đội Mỹ hãm hiếp tập thể và sau đó giết chết. Nhiều thôn khác cũng thường xuyên bị không quân Hoa Kỳ dội bom lên đầu. Gần đây, (năm 2007, 2008) Hoa Kỳ đã thừa nhận là có chính sách “ngăn chặn” thường dân tại một số nơi ở mặt trận ở một số thời điểm.
Miền Bắc Triều Tiên bị tàn phá nặng nề bởi bom Mỹ, chỉ vài căn nhà còn đứng vững. Hơn 3,5 triệu người Triều Tiên bị chết trong cuộc tiến công của Mỹ, và một danh sách dài các tội ác chiến tranh của quân đội Mỹ đã được ghi nhận bao gồm cả việc sử dụng vũ khí sinh học, vũ khí hủy diệt hàng loạt và những cuộc tàn sát cư dân địa phương. Theo chuyên gia Michel Chossudovsky thuộc cơ quan Global Research, gần 30% dân số Bắc Triều Tiên đã chết dưới những đợt dội bom của Mỹ trong thập niên 1950.
Ngoài ra chính phủ các bên cũng tố cáo, cáo buộc, quy kết lẫn nhau về nhiều tội ác chiến tranh khác, tuy nhiên không có những bằng chứng rõ ràng. Hoa Kỳ cho rằng đã có một vụ thảm sát tại đồi 303, khi 41 tù binh của họ đã quân Kim Nhật Thành bắt giữ và xả súng máy thảm sát trong tư thế vẫn bị trói tay sau lưng trong trận Vành đai Phú Sơn.
Một bộ phận người dân Hán Thành vốn là ủng hộ viên, cảm tình viên, thiên cộng, hoặc chống Lý Thừa Vãn đã chạy theo quân đội Triều Tiên (vốn đang trên đường thua chạy) về miền Bắc (điều bất ngờ ngoài dự tính này đã làm cho cuộc rút lui đang có kỷ luật trở thành vô trật tự và ì ạch, chậm chạp vì phải lo cho dân). Tuy nhiên, Hàn Quốc và Hoa Kỳ lại gọi đây là sự cưỡng bức di cư, và xem đó là một trong những "tội ác chiến tranh" của Triều Tiên.
Nhà thổ phục vụ lính Mỹ
Trong những năm 1950, kể từ khi Mỹ đóng quân ở Nam Triều Tiên đồng thời chủ động Bắc tiến cưỡng chiếm và xâm lược Bắc Triều Tiên, chính quyền thân Mỹ ở Hàn Quốc xem quân đội Mỹ như một cơ hội thu lợi về kinh tế mặc dù món lợi này được trả giá bằng hàng chục ngàn phụ nữ. Khi quân đội Mỹ tới Hàn Quốc cũng là lúc các tấm biển chỉ đường mọc lên, chỉ dẫn tới các thị trấn Hàn Quốc hay còn gọi là các địa điểm "nghỉ ngơi và giải trí" (R&R). Những nơi này nằm gần các trại lính lớn ở Hàn Quốc phục vụ cho "nhu cầu tiêu dùng" của binh lính Mỹ. ’’Nhu cầu tiêu dùng’’ này chính là tình dục của lính Mỹ.
Những thị trấn đồi trụy này không phải do tư nhân xây dựng để "làm ăn", kiếm lợi, mà do chính các chế độ cầm quyền ở Hàn Quốc đã thiết lập để vừa phục vụ lính Mỹ vừa sinh lợi cho nền kinh tế. Chính phủ Lý Thừa Vãn phát đăng ký cho tất cả gái điếm quân đội và thẻ đăng ký giúp họ ra vào những điểm R&R này. Giấy thông hành duy nhất mà một nam giới cần là một bộ quân phục Mỹ.
Vào cuối thập niên 1950, chính phủ Mỹ và chính phủ Hàn Quốc ký với nhau 2 hiệp nghị bất bình đẳng. Một là Hiệp ước phòng thủ chung, hiệp định này chính danh hóa sự có mặt của thực binh Mỹ ở Nam Triều Tiên, chính thức cho phép quân đội Mỹ đóng ở Hàn Quốc vô thời hạn. Hiệp ước cũng quy định các địa điểm R&R (phục vụ tình dục) sẽ được "cống nạp" cho lính Mỹ. Vào năm 1988, lính Mỹ vẫn còn sử dụng các thị trấn Hàn Quốc này. Ngoài ra, các con số thống kế cho thấy có hơn 18.000 gái mại dâm Hàn phục vụ gần 5 vạn lính Mỹ đóng tại Hàn Quốc. Một số chuyên gia nói rằng ở đâu có lính Mỹ, ở đó sẽ có các nhà thổ do các chính phủ bản xứ tài trợ và ủng hộ.
Hai là hiệp nghị Status of Forces Agreement, theo thỏa thuận này, tòa án Hàn Quốc không có quyền xử binh lính Mỹ đang đóng quân và làm nhiệm vụ trên lãnh thổ Hàn Quốc, chỉ có tòa án binh Mỹ mới có quyền xử binh lính Mỹ.
Những hiệp định bất bình đẳng cho phép một nước ngoài đóng quân vĩnh viễn và "dâng gái", "mỹ nhân kế" này mãi mãi đi vào lịch sử bán đảo Triều Tiên nói chung và lịch sử Đại Hàn Dân Quốc nói riêng như là một vết nhơ. Không phải ngẫu nhiên mà xưa nay thường xuyên có những tụ họp biểu tình bày tỏ sự bất mãn với Mỹ của người dân Hàn.
Bán đảo Triều Tiên sau chiến tranh
Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến tranh quy mô đầu tiên trong thời kỳ Chiến tranh lạnh và đã gây thiệt hại nặng nề cho cả bán đảo Triều Tiên và các lực lượng Liên Hiệp Quốc.
Mặc dù Hàn Quốc trì trệ về kinh tế trong những thập niên sau chiến tranh, nhưng nhờ Mỹ tích cực đổ tiền vào viện trợ, đầu tư, giúp đỡ, Hàn Quốc sau đó đã được Mỹ và phương Tây giúp vực dậy nền kinh tế và hỗ trợ cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Kinh tế Triều Tiên thì cũng đã hồi phục và phát triển nhanh chóng sau chiến tranh và cho đến khoảng năm 1975 đã vượt qua nền kinh tế của Hàn Quốc. Tuy nhiên, nền kinh tế của Triều Tiên tăng trưởng chậm dần. Ngày nay, do đòn thù cấm vận của Mỹ và phương Tây, chính sách đóng cửa, tự cô lập với thế giới bên ngoài, tự cung tự cấp, tự lực cánh sinh, bế quan tỏa cảng và nhiều sai lầm về chính sách, về thực hành, về công tác lãnh đạo, về mô hình thể chế, cơ chế chính trị, các thiết chế xã hội v.v. cộng với thiên tai bão lụt, hạn hán mất mùa v.v. cho nên nền kinh tế Triều Tiên đã sa sút, lương thực thiếu thốn, và hàng năm phải nhận viện trợ từ Trung Quốc và cả Hàn - Mỹ để cứu đói trong khi nền kinh tế Hàn Quốc đã phát triển ưu việt.
Sau chiến tranh, Kim Nhật Thành bắt tay vào việc kiến thiết đất nước vốn đã bị quân đội Mỹ tàn phá nặng nề. Ông thực hiện kế hoạch “Kinh tế quốc gia 5 năm”, tạo nên một nền kinh tế tập trung, với tất cả ngành công nghiệp đều là công hữu và tất cả nền công nghiệp được tập thể hóa. Đất nước hình thành dựa trên nguyên lý chủ nghĩa quân bình và nền kinh tế dựa trên nhu cầu của công nhân và đội ngũ trí thức. Kinh tế tập trung vào công nghiệp nặng và sản xuất vũ khí. Cả hai bên Bắc - Nam đều duy trì một lực lượng vũ trang đông đảo để bảo vệ đường ngừng bắn năm 1953.
Giữa thập niên 1960, chủ tịch Kim Nhật Thành đã có những nỗ lực xâm nhập Nam Triều Tiên để chống Hàn Quốc. Những nỗ lực đó lên đến cực điểm khi Kim Nhật Thành cho các lực lượng sát thủ đặc biệt tấn công Nhà Xanh và ám sát tổng thống độc tài Phác Chính Hy, nhưng nhiệm vụ thất bại, không giết được Phác Chính Hy mà còn ngộ sát vợ ông ta. Quân đội Triều Tiên có thái độ ngày càng quyết liệt đối với Hàn Quốc và quân đội Hoa Kỳ đồn trú ở gần giới tuyến quân sự, lôi kéo quân đội Mỹ vào những cuộc đấu súng quyết liệt dọc theo vùng phi quân sự. Vụ bắt giữ thủy thủ của tàu do thám USS Pueblo là một phần của nỗ lực này.
Theo sách "Phật giáo Đại Hàn, trước những thử thách lịch sử" của tác giả Trần Quang Thuận, do Tu viện Quảng Đức xuất bản năm 2004 ở Hoa Kỳ, chương 10, thì từ năm 1953 sau hiệp định đình chiến cho đến năm 1969, thì Bắc Triều Tiên đã gây ra 6.814 biến cố tại Nam Triều Tiên. Từ năm 1970 đến 1977, 32.775 vụ. Từ 1970 đến 1977, 32.775 vụ. Bình Nhưỡng cho đào hầm xuyên qua ranh giới Bắc - Nam để đột nhập vào Nam. Ba đường hầm đã được khám phá vào năm 1974, 1975 và 1978. Hải quân Triều Tiên từ năm 1975 đến 1980 liên tục áp giải tàu đánh cá Hàn Quốc, nhiều cán binh Triều Tiên được đặc phái đến Hàn Quốc nằm vùng vào năm 1982, đa số đều bị lực lượng cảnh sát, mật thám của Hàn Quốc và CIA tiêu diệt.
Lãnh tụ Kim Nhật Thành, Tư lệnh tối cao của quân đội Triều Tiên tại cứ điểm trên núi Taedok, tháng 2/1963
Tuy nhiên, thời gian về sau Triều Tiên đã gặp phải những khó khăn ngày càng tăng về kinh tế sau nhiều thập kỷ phát triển thành công. Trong thời kỳ Trung - Xô xung đột, do chống chủ nghĩa xét lại của một số lãnh đạo Liên Xô, và quan niệm rằng Trung Quốc là láng giềng ở sát bên cạnh, theo Trung Quốc có lợi hơn theo Liên Xô, nên Triều Tiên đứng hẳn về phía Trung Quốc. Sau đó còn giúp Trung Quốc và Khmer Đỏ chống Liên Xô và Việt Nam (họ bảo rằng Việt Nam đã sai khi "xâm lược" Campuchia, VN "làm to chuyện trước"). Do dại dột ngoại giao đó, Triều Tiên mất quan hệ với Việt Nam, Lào, Cuba, quan hệ với Liên Xô và Đông Âu bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Sự cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình ở Trung Quốc vào năm 1979 về sau cũng đưa đến việc thờ ơ, lãnh đạm với Triều Tiên. Sự bao vây cấm vận kinh tế và quân sự của các nước do Mỹ cầm đầu. Chính sách tự cô lập, bế quan tỏa cảng. Sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết trong thời kỳ 1989-1991. Tất cả những hiện tượng đó đã đẩy Triều Tiên vào thế cô lập, cộng với những thiên tai bão lũ gây thêm vô vàn khó khăn kinh tế cho Triều Tiên.
Một Triều Tiên trước đây có tốc độ công nghiệp hóa nhanh hơn, tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh thấp hơn, chất lượng sống cao hơn Hàn Quốc trong nhiều thập kỷ, đến những năm 1990 đã gặp vô số khó khăn xuất phát từ sự thiếu thốn đối tác thương mại sau khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ cấm vận, các trận bão lụt khủng khiếp. Người dân Triều Tiên gọi thời kỳ này là "Cuộc hành quân gian khổ".
Niềm vui của chủ tịch Kim Nhật Thành khi đi thăm cánh đồng lúa được mùa ở Onchon, tháng 8/1968
Dư luận trong dân chúng Triều Tiên thường xuyên lặp đi lặp lại rằng Triều Tiên sẽ được thống nhất trước sinh nhật lần thứ 70 của lãnh tụ "vĩ đại" Kim Nhật Thành vào năm 1982, và đã có những nỗi lo sợ từ phương Tây rằng Kim Nhật Thành sẽ tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực lần thứ hai. Tuy nhiên, sự chênh lệch về kinh tế và thực lực quân sự giữa Bắc và Nam (nơi vẫn hiện diện 5 vạn quân đội Mỹ) vào thời kỳ đó khiến cho việc thống nhất bán đảo không thể diễn ra.
Nhân dân và Phật tử ở Hàn Quốc biểu tình chống đối người Mỹ và chính phủ Lý Minh Bác mà họ gọi là "chính phủ Tin Lành"
Chính nghĩa thuộc về ai?
CHDCND Triều Tiên không có chính nghĩa rõ ràng như Việt Nam, do tính chính danh, chính thống, pháp lý, chính nghĩa dân tộc của họ không bằng Việt Nam, cũng như cuộc chiến trên bán đảo Triều Tiên không hoàn toàn là cuộc chiến chống xâm lăng như 2 cuộc chiến trên bán đảo Đông Dương. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa họ không có chính nghĩa, hay Hàn Quốc có chính nghĩa hơn, hay hai bên có chính nghĩa ngang nhau. Trong phạm vi bài này tôi chỉ đưa ra những vấn đề khách quan cho các bạn đọc tự suy ngẫm, nhận xét và đánh giá.
Trước Chiến tranh Triều Tiên, sau khi tướng Ivan Chistiakov của Liên Xô và tướng John R. Hodge của Hoa Kỳ giải giáp quân đội Nhật, giải phóng bán đảo Triều Tiên khỏi nanh vuốt của đế quốc Nhật. Dưới sự hậu thuẫn của Xô - Mỹ, một số chính khách sa lông của bán đảo đã tuyên bố độc lập suông, tuy nhiên không có quốc gia nào hay nhà nước nào được thành lập, và cái gọi là "độc lập" này chỉ có trên danh nghĩa, do thực tế quyền lực nằm trong tay Liên Xô ở phía Bắc và Hoa Kỳ ở phía Nam.
Năm 1948, tiến sĩ Lý Thừa Vãn, một trí thức chính khách chống Nhật kiểu cải lương, cùng phe đảng của mình tuyên bố bán đảo Triều Tiên độc lập và thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc. Gần một tháng sau, Kim Nhật Thành, một sĩ quan quân đội trong tổ chức Quân đội Hỗn hợp kháng chiến miền Đông Bắc và Quân Tình nguyện Triều Tiên do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo (cũng từng tham gia Hồng quân Liên Xô) cùng phe đảng của mình tuyên bố bán đảo Triều Tiên cũng độc lập, không công nhận chính quyền Lý Thừa Vãn ở phía Nam, thành lập nước CHDCND Triều Tiên.
Như vậy về danh nghĩa, phe Nam Triều Tiên có chính danh hơn, do đã tuyên bố độc lập và thành lập quốc gia trước phe Bắc Triều Tiên gần 1 tháng. Lý Thừa Vãn cũng là một trí thức kỳ cựu có tên tuổi, có kinh nghiệm chính trường thâm niên, nhiều năm hoạt động chống Nhật. Trong khi Kim Nhật Thành lúc ấy chỉ là một viên tướng trẻ mà theo Lý đại khái là "một thằng nhãi ranh miệng còn hôi sữa".
Tuy nhiên trên thực tế thì phe Triều Tiên lại có chính nghĩa hơn, do phần đông nhân lực của phe này đều thuộc các lực lượng vũ trang chống Nhật, đã từng chiến đấu chống quân xâm lược Nhật bao nhiêu năm qua. Họ Kim cũng là một gia đình cách mạng có truyền thống hoạt động chống Nhật, chính gia đình này đã phải di tản sang Mãn Châu để tránh bọn Nhật ruồng bố, cha của Kim Nhật Thành là một chí sĩ chống Nhật cải trang thành một mục sư. Bản thân Kim Nhật Thành cũng vào tù ra khám và vượt ngục (Nhật, Tưởng) nhiều lần.
Trong khi Lý Thừa Vãn không có ưu thế về gia tộc (yếu tố gia tộc luôn rất mạnh trong văn hóa lâu đời của dân tộc Cao Ly), bản thân cũng chỉ chống Nhật bằng biện pháp ... biểu tình chứ không trực tiếp cầm súng. Theo những người cánh tả Triều Tiên thì Lý Thừa Vãn chỉ là một lão già quá đát mà theo Kim Nhật Thành đại khái là "một con cáo già thành tinh, lạm dụng tiểu xảo, lợi dụng thiên hạ, nụ cười chứa dao, khẩu Phật tâm xà, chỉ biết nói suông, khua môi múa mép, trói gà không chặt, chưa bao giờ đụng đến khẩu súng".
Như vậy, thời kỳ lịch sử này đã cho thấy sự chính danh và chính nghĩa của đôi bên cũng một chín một mười, bên tám lạng - người nửa cân. Chẳng phe nào có đủ chính nghĩa một cách rõ ràng để quy tụ được lòng dân trên cả nước.
Trong Chiến tranh Triều Tiên, quân đội Hàn Quốc yếu kém và bệ rạc hơn quân đội Triều Tiên nhiều, cả về số lượng, chất lượng, lẫn vũ khí, cộng với yếu tố bất ngờ nên bị dồn vào vùng núi Phú Sơn (Pusan) tử thủ. Khi sắp thua thì liên quân Liên Hiệp Quốc do tướng Mỹ MacArthur chỉ huy nhảy vào cứu nguy, đánh đuổi, truy quét quân Triều Tiên và thừa thắng xông lên đánh qua vĩ tuyến 38, chiếm được thủ đô Bình Nhưỡng, các lãnh đạo Triều Tiên đều phải chạy sang Mãn Châu, khi CHDCND Triều Tiên sắp thua thì đại binh Trung Quốc do nguyên soái Bành Đức Hoài chỉ huy nhảy vào cứu nguy.
Như vậy, một bên sắp chết thì quân Liên Hiệp Quốc - Mỹ xông vào cứu sống. Bên kia sắp chết thì quân Trung Quốc nhảy vào cứu sống. Sau đó quân đội Trung Quốc và lực lượng LHQ chống nhau trên bán đảo này và giằng co với nhau tại đây.
Như vậy, trong Chiến tranh Triều Tiên, cho thấy không ai có chính nghĩa rõ ràng cả. Tuy nhiên phe Kim có ưu thế hơn một chút do là người dám đánh trước và có mong muốn thống nhất bán đảo thật sự, trong khi đó phe Lý chỉ muốn phòng thủ, cát cứ ly khai, xưng vương một cõi, duy trì tình trạng phân chia thiên hạ. Đó là giai đoạn 1 của chiến tranh Triều Tiên, còn giai đoạn 2 thì chủ yếu là quân đội Trung Hoa và quân đội LHQ - Mỹ giao chiến, nên chẳng phe nào có một chút chính nghĩa nào cả vì vai trò của Triều Tiên và Hàn Quốc lúc này đã mờ nhạt, không còn bao nhiêu thực lực và không có tiếng nói, vai trò gì nhiều trong cuộc chiến giữa Trung Quốc và Mỹ - LHQ.
Sau trận liều lĩnh, mạo hiểm mong muốn thống nhất thiên hạ của tướng Kim Nhật Thành, Triều Tiên đã trả một giá rất đắt, đất nước ngã quỵ, không còn khả năng Nam tiến. Từ đó đất nước này phải phụ thuộc vào sự viện trợ quân sự, kinh tế từ Liên Xô, Đông Đức, Trung Quốc và sự viện trợ nhân đạo, nhiên liệu, lương thực từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Hoa Kỳ, và một số tổ chức nhân đạo quốc tế, Liên Hiệp Quốc. Trong chiến tranh liên Triều, Bắc Triều Tiên đã bị Hoa Kỳ dội bom đến không còn một nóc nhà nào còn nguyên vẹn, ở thủ đô Bình Nhưỡng hầu hết các nhà đều bị máy bay ném bom phá hủy hoặc bị bộ binh đặt chất nổ phá hủy, hoặc pháo binh pháo kích vào phá hủy, Mỹ và đồng minh đã tổ chức phá hoại có hệ thống tại đây và không còn ngôi nhà nào còn nguyên vẹn.
Ngày nay, Triều Tiên dù muốn thống nhất thì cũng "lực bất tòng tâm" sau một thời gian dài thiên tai bão lụt và bị bao vây cấm vận, họ chỉ đủ sức phòng thủ. Trong khi Hàn Quốc nhờ Mỹ và phương Tây viện trợ, kinh tế phát triển, có đủ khả năng tấn công để thống nhất bán đảo nhưng sợ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, sợ phải gánh thêm hàng chục triệu miệng ăn từ phía Bắc, nên vẫn chỉ duy trì hiện trạng và phòng thủ là chủ yếu, như vậy là không thật lòng muốn thống nhất. Trong khi cuộc chiến tranh liên Triều đã chứng minh rằng khi mạnh hơn, khi có đủ điều kiện thì CHDCND Triều Tiên sẵn sàng vượt vĩ tuyến tấn công vào phía Nam để thống nhất bán đảo Triều Tiên.
Theo quan điểm của người viết, vấn đề thống nhất quốc gia là quan trọng và cần thiết, nên được đặt cao hơn các giá trị kinh tế. Ấn Độ chỉ biết đấu tranh ôn hòa kiểu Gandhi nên đã bị đế quốc Anh phân chia vĩnh viễn làm 4 nước (Ấn Độ, Miến Điện, Tích Lan, Pakistan, sau đó lại chia hai thành Pakistan và Bangladesh). Bán đảo Triều Tiên có thể cũng sẽ bị phân chia mãi mãi như Ấn Độ và một số nước khác trên thế giới như Đại Colombia đã tách ra thành 3 nước (Colombia, Venezuela, Ecuador), về sau Panama lại ly khai khỏi Colombia vào năm 1903, vương quốc Hà Lan chia thành 3 quốc gia (Hà Lan, Bỉ, Luxembourg), Tiệp Khắc lại tự chia đôi (Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia). Không nhất định hễ chia cắt là sẽ được thống nhất. Lịch sử thế giới đã nhiều lần cho thấy có những quốc gia, dân tộc chia rẽ ngàn đời. Sự ăn ngon mặc đẹp, tiền nhiều, thu nhập cao, kinh tế phát triển, khoa học công nghệ cao, giàu có v.v. không mua được một Tổ quốc hoàn toàn độc lập tự do, thống nhất, và hòa bình lâu dài.
Lúc đó Mỹ chưa viện trợ nhiều cho Hàn Quốc. Kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật, quân sự Triều Tiên đều vượt trội Hàn Quốc, quân đội thì vừa "tinh" lại vừa "đa", đó là cơ hội khó thể bỏ qua, có lẽ đó là thời điểm thích hợp để tiến đánh. Chẳng trách khi quân đội Kim Nhật Thành tiến nhập Hàn Quốc thì đánh đâu thắng đó, thế như chẻ tre, còn quân đội Lý Thừa Vãn thì lớp rủ nhau đào ngũ, lớp nối đuôi nhau bỏ chạy, lớp đầu hàng rồi gia nhập vào chính đoàn quân Nam tiến, các thành phố nối theo nhau thất thủ. Chỉ thiếu một chút nữa là thống nhất được bán đảo. Tướng quân Kim Nhật Thành và các đồng chí của ông đã quá tự tin, chủ quan khinh địch, say men chiến thắng mà không ngờ tới "chiêu" đánh úp, đột kích, cắt sườn táo bạo, bất ngờ, và tài tình của danh tướng MacArthur. Khiến cho họ từ thắng thành thua.
Xét trên bình diện quốc tế thì Hàn Quốc có chính danh hơn, ít nhất về pháp lý quốc tế. Hàn Quốc lập quốc trước CHDCND Triều Tiên, tuy năm 1991 hai nước mới chính thức gia nhập Liên Hiệp Quốc, nhưng năm 1948 Liên Hiệp Quốc đã ra nghị quyết công nhận Đại Hàn Dân Quốc. Mặc dù Liên Hiệp Quốc thời đó bị Mỹ thao túng, lộng quyền, lộng hành, nhưng ít ra Hàn Quốc vẫn có danh nghĩa trên "giấy tờ", có danh nghĩa về mặt kỹ thuật.
Ngày nay, Hàn Quốc có quan hệ ngoại giao rộng rãi với gần tất cả các nước trên thế giới, trong đó bao gồm nhiều cường quốc, và được dư luận quốc tế đồng tình. Hệ thống chính trị dân chủ tư sản, khác với chính thể độc tài, phong kiến kiểu Mao của người anh em phía Bắc. Có tự do kinh tế, tự do chính trị hơn, quyền tự do cá nhân được cởi mở, thoải mái, thông thoáng hơn, đời sống kinh tế của nhân dân tốt hơn, giàu có thịnh vượng hơn. Lại được tiếng "yêu chuộng hòa bình", tránh chiến tranh (thật ra là không muốn ảnh hưởng xấu đến túi tiền). Còn Triều Tiên thì bị mang tiếng "hiếu chiến", "hung hăng", "trục Ma Quỷ", "tài trợ khủng bố", "mối đe dọa của hòa bình"...
Xét theo góc độ quốc gia dân tộc thì phe Kim Nhật Thành có quá khứ cầm súng chống Nhật, dù đánh không thắng nhưng ít ra cũng có đánh, không như phe Lý Thừa Vãn chỉ chống Nhật bằng... biểu tình. Sau này lại bắt tay giảng hòa với Nhật. Triều Tiên cũng từng cho thấy là họ dám tiến đánh để thống nhất nước họ. Hàn Quốc thì đã đủ sức thống nhất từ lâu nhưng có vẻ như ngần ngừ và muốn duy trì hiện trạng, hài lòng với tình trạng chia cắt này.
Trong lịch sử, sau khi nước CHDCND Triều Tiên ra đời thì Hồng quân Liên Xô rút hết. Trong khi Hoa Kỳ vẫn "ăn dầm nằm dề" ở Hàn Quốc trong những năm sau đó. Cũng thế, năm 1953 sau khi ký kết hiệp nghị đình chiến ở Bàn Môn Điếm thì quân đội Trung Quốc cũng rút hết về nước, trong khi Hoa Kỳ lại tiếp tục "ăn dầm nằm dề" ở Hàn Quốc.
Tư cách chính nghĩa của Hàn Quốc cũng bị lung lay trong những năm gần đây khi 2 cô gái Hàn bị xe lính Mỹ cán chết. Khoảng 1 vạn rưỡi quân Mỹ vẫn đồn trú ở Hàn Quốc trong khi không có 1 người lính Trung Hoa nào ở Triều Tiên. Lính Mỹ đóng ở Hàn Quốc dù vi phạm luật pháp Hàn Quốc thì tòa án Hàn Quốc cũng phải rất khó khăn mới xử được, theo Thỏa ước Trạng thái đóng quân (SOFA - Status of forces agreement) ở các nơi có căn cứ quân sự Mỹ, nếu người lính đóng quân phạm pháp trong khi đang làm nhiệm vụ quân sự thì thường là phải giao cho tòa án quân sự Mỹ xử, trừ các trường hợp, vụ án đặc biệt.
Rồi vụ "thịt bò điên", lúc đó có bệnh dịch bò điên, cả thế giới ít ai dám nhập khẩu thịt này từ Mỹ. Dưới thời tổng thống Lô Vũ Huyễn, Hàn Quốc cấm nhập thịt bò độc hại này, nhưng sau khi Lý Minh Bác "đắc cử" và từ Mỹ về thì đột nhiên cho nhập khẩu thịt bò điên, bất chấp nhiều cuộc biểu tình lớn phản đối, thậm chí đưa đến sự đàn áp của cảnh sát và sự đổ máu của người biểu tình. Có vẻ như lợi ích của tư bản Mỹ, lợi ích kinh tế, lợi ích tư bản của người Mỹ vẫn là trên hết, được đặt cao hơn, được xem trọng hơn lợi ích của dân đen Hàn Quốc. Vụ thịt bò điên này đã gây ra biểu tình nhiều nơi với quy mô lớn trên Hàn Quốc nhiều ngày, gây ra nhiều đàn áp, bắt bớ, ẩu đả, bạo lực đáng tiếc. Nhiều người coi đây là một sự kiện "Mỹ ép Hàn ăn thịt bò điên của mình" do không tiêu thụ được trên thị trường Mỹ và các nước khác. Người tiêu thụ Mỹ không dám ăn, không dám mua, người các xứ khác cũng vậy, giới tư bản tài phiệt Mỹ không tiêu thụ được món hàng này, liền đem tống vào thị trường Hàn Quốc cho dân Hàn Quốc ăn, mà mỉa mai ở chỗ là Hàn Quốc còn phải trả tiền cho Mỹ để "được" ăn thịt bò điên này.
Phần nào vì những lẽ đó mà Hàn Quốc ngày nay cũng có nhiều người dân ủng hộ CHDCND Triều Tiên, đến nỗi Hàn Quốc phải cấm ngặt hết những sách báo về chủ nghĩa xã hội và thiên Cộng, thiên tả, thân Triều. Đăng ký blog phải khai lý lịch, phải có thẻ căn cước cá nhân (ID) v.v. Youtube tiếng Hàn Quốc có dạo bị chặn một thời gian. Vẫn có nhiều cấm đoán về chính trị, cấm cản, chặn website, đặt tường lửa các trang web thân Cộng, thân Triều Tiên, chống Hàn, các sách báo về chủ nghĩa Marx-Lenin... Trên các diễn đàn Internet, Youtube, cộng đồng mạng vẫn thấy nhiều dân gốc Hàn đang sinh sống khắp nơi có Internet như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, Nhật, Mỹ v.v. vẫn hay lên mạng tranh cãi và bênh vực Triều Tiên, bênh vực nhà Kim.
Năm 2010 và 2011, một số nghi can viết trên blog, diễn đàn, sử dụng tiểu blog Twitter để đăng lại những bài viết từ các website chính thức của CHDCND Triều Tiên, đăng bài viết và các video clips với nội dung ca ngợi Bình Nhưỡng đã bị cảnh sát Hàn Quốc bắt giữ vì tình nghi tuyên truyền cho cộng sản. Luật về "an ninh quốc gia" của Hàn Quốc hiện nay vẫn nghiêm cấm phổ biến những bài viết ngợi khen Bắc Triều Tiên hoặc bất kỳ các hành động nào bày tỏ sự ủng hộ chủ nghĩa cộng sản.
Trong một lần biểu tình ở Hàn Quốc chống lại sự đóng quân của Mỹ, đoàn tuần hành tiến đến dinh tổng thống thì gặp phải một bức tường cản cao to có bôi dầu để người dân không thể trèo lên được. Gặp chướng ngại, dân biểu tình đã tức giận, bức xúc viết những câu lên giấy dán lên bức tường sắt: “Đây là biên giới mới của nước ta. Kể từ đây trở đi là tiểu bang Nam Hàn của Mỹ”.
Người dân Hàn Quốc thắp nến phản đối Mỹ
Trong các cuộc biểu tình bày tỏ bất bình, chống đối quân đội Mỹ và những rối loạn, vô pháp vô thiên mà họ gây ra ở Hàn Quốc, dân Nam Triều Tiên đã hát lên những bài ca hãnh diện về truyền thống của các vương triều cổ xưa hùng mạnh. Bà nội trợ Kim Sook Yi, trả lời phỏng vấn đài NBC Mỹ, đã phẫn nộ về hoàn cảnh Hàn Quốc thế này: “Ngày xưa cổ nhân của chúng tôi phải đi triều cống hoàng đế Trung Hoa. Nay thì lại đi triều cống Washington. Thực là nhục nhã, một gương xấu cho trẻ con Hàn.” Một phụ nữ khác nói thẳng: "Lee Myung Bak (Lý Minh Bác, tổng thống đương nhiệm) là tên gian tặc Lee Wan Yong!" Lee Wan Yong vốn là đại thần bán nước của vương triều Triều Tiên của đế chế Đại Hàn ở đầu thế kỷ 20 đã "dẫn sói vào nhà", giúp quân đội Nhật đánh vào bán đảo Triều Tiên và triều đình Nhật Bản sát nhập Triều Tiên làm thuộc địa. Lee Wan Yong ở Hàn bị dân chúng coi như Kiều Công Tiễn, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Hoàng Văn Hoan ở nước ta.
Lý Minh Bác, bị nhiều đồng bào xem là một Lee Wan Yong tân thời của dân tộc Triều Tiên
Dân gian Hàn Quốc xưa nay thường lưu truyền qua các thế hệ bài hát “Đừng tin Nga, đừng tin Mỹ. Coi chừng Nhật quay lại.” Họ không quên được nỗi đau đất nước của họ bị Nga - Mỹ và các thế lực quốc tế chia đôi thành hai miền tự trị. Dân Hàn không quên được nỗi đau chia đôi đất nước, chia rẽ dân tộc, chiến tranh tàn phá do các thế lực siêu cường, chủ yếu do Hoa Kỳ gây nên.
Năm 2002, khi một chiếc xe quân sự Mỹ cán chết 2 nữ sinh trung học của Hàn Quốc đã làm bùng cháy tinh thần bài Mỹ của dân Hàn vì sự hiện diện quân sự, cũng như sự áp đặt về chính trị (mô hình thể chế, cơ chế, ngoại giao) và kinh tế của Mỹ trên đất Hàn là một nỗi “quốc sỉ”.
Trong thời gian đó đã tạo nên rất nhiều phong trào bày tỏ thái độ đối với sự hiện diện của quân đội Mỹ, chống chính phủ Mỹ, cũng như những phong trào dân tộc cực đoan kỳ thị người Mỹ, người da trắng, các cuộc thắp nến, tuần hành, mà nổi bật nhất là hai cuộc biểu tình quy mô to lớn huy động đến mấy chục vạn người qua vụ Phật tử và dân chúng Hàn Quốc mượn chuyện Tin Lành, “kỳ thị tôn giáo”, và quyết định nhập cảng “thịt bò điên Mỹ” của tổng Lý để biểu tình chống Lý - Mỹ. Phong trào bài Mỹ, đả kích Lý, chỉ trích Mỹ, tẩy chay người ngoại quốc một dạo từng rất sôi nổi dâng trào ở Nam Triều Tiên.
Quan hệ Triều - Trung và Hàn - Mỹ
Hàn Quốc về chính trị, ngoại giao thì phải nhìn sắc diện của Mỹ. Về quân sự thì phải lép vế dưới quyền các Tư lệnh liên quân người Mỹ (hiện là James Thurman, người tiền nhiệm là Walter Sharp). Họ đã ký một số hiệp ước chính trị bất bình đẳng, hợp đồng kinh tế bất bình đẳng với Hoa Kỳ, khiến các dân biểu trong Quốc hội Hàn Quốc ẩu đả, hành hung lẫn nhau u đầu sứt trán bao nhiêu lần nhưng không hiểu sao tất cả hiệp nghị, đạo luật đó vẫn được thông qua.
Dân chúng nhiều lần kéo ra đường biểu tình phản đối Mỹ, chống Lý Minh Bác, bày tỏ bất bình, phẫn uất trong những vụ cưỡng gian, thịt bò điên, nhưng vô dụng, cảnh sát thì dùng hơi cay đàn áp và bắt bớ. Phụ nữ, gái vị thành niên, trẻ em bị lính Mỹ gian sát nhưng cũng không thể xử và không được quyền điều tra.
Tổng thống Lô Vũ Huyễn (Roh Moo-hyun, Rô Mu Hiên) có chính sách và thái độ thân thiện với người huynh đệ Triều Tiên, có thái độ kém thân thiện và dè dặt với Mỹ, thật tâm muốn thực hiện chính sách Ánh Dương thống nhất đất nước trong hòa bình, đã từng gặp gỡ thân tình với Kim Chính Nhật. Sau đó bị buộc phải về hưu non, sau khi Lý Minh Bác lên thay 1 năm thì Lô Vũ Huyễn bị cáo buộc tham nhũng và chết trong một vụ "tự tử" mờ ám, chính quyền thì không cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân độc lập vào điều tra.
Nhiều người không tin vào kết luận của cảnh sát vì vụ án này có rất nhiều vấn đề sơ hở, khó hiểu. Theo báo Korea Times ở Hàn Quốc, việc ông "tự tử" đã được tuyên bố ngay trước khi "lá thơ tuyệt mạng trên computer" được cảnh sát tìm thấy trong phòng riêng. Và lá thơ gõ trên máy vi tính thì không thể kiểm chứng nét chữ xem có đúng là của đương sự hay không. Người cận vệ của ông khi được hỏi cung thì trả lời thiếu nhất quán, lúc thế này, lúc thế khác. Theo báo Korea Herald ở Hàn Quốc thừa nhận, tới ngày 27 tháng 5 thì bỗng dưng gã cận vệ phản cung, bảo rằng thật ra anh ta không ở bên cạnh Lô Vũ Huyễn trong thời điểm xảy ra vụ án mạng. Do đó nhiều người ngờ rằng đây là một sự trả thù và răn đe của Mỹ đối với ai dám không nghe lời họ, đi ngược lại lợi ích của họ.
Một số người cho rằng Bắc Triều Tiên phụ thuộc Trung Quốc, là một tỉnh của Trung Quốc, là đồ đệ của Trung Quốc v.v. Đó hoàn toàn chỉ là suy diễn. Nếu nhìn vào thực tế khách quan thì không thấy như vậy. Trung Quốc ở nước của họ. Bắc Triều Tiên ở nước của họ. "Đèn nhà ai nấy sáng".
Dân nghèo vượt biên sang Trung Quốc tỵ nạn bị Bắc Triều Tiên chặn bắt, Trung Quốc cũng chặn bắt rồi giao lại cho Bắc Triều Tiên. Công dân Trung Quốc hay bất kể là ai du lịch sang Bắc Triều Tiên từ đường Trung Quốc, mà vi phạm luật pháp CHDCND Triều Tiên thì đều bị bắt xử theo luật pháp, có khi xử bắn, đi bậy vào các khu vực quân sự thì bị bắn chết ngay. Trong các phim tài liệu của CCTV, Tân Hoa xã của Trung Quốc về Bắc Triều Tiên, có thể thấy ngay cả phóng viên nhà nước của Trung Quốc cũng bị cảnh sát Triều Tiên giật lấy và tạm tịch thu máy khi muốn chụp hình hay quay phim các hình ảnh nhạy cảm.
Trung Quốc chơi với Mỹ, Hàn, Nhật, xem là đối tác tốt và có quan hệ chiến lược với Mỹ. Nhưng Bắc Triều Tiên thì xem Mỹ - Nhật là kẻ thù không đội trời chung. Trong khi quan hệ ngoại giao của Hàn Quốc thì rập khuôn Mỹ gần trăm phần trăm. Mỹ chơi với ai thì họ chơi với người đó. Mỹ là đối tác của ai thì họ là đối tác của người đó. Đồng minh của Mỹ thì cũng là đồng minh của Hàn. Kẻ thù của Mỹ thì cũng là kẻ thù của Hàn. Tóm lại, Mỹ theo lề nào thì Hàn theo lề đó.
Tại Bắc Triều Tiên hiện nay cũng không có 1 người lính Trung Quốc nào hay căn cứ quân sự nào của ngoại quốc. Trong khi 1 vạn rưỡi quân Mỹ và các căn cứ quân sự của họ vẫn hiện diện ở Hàn Quốc. Không có người Trung Quốc hay quan chức nhà nước Trung Hoa nào nằm trên luật pháp CHDCND Triều Tiên như lính Mỹ, đại sứ Mỹ, nhân viên ngoại giao Mỹ nằm trên luật pháp Đại Hàn Dân Quốc, họ phạm tội gì, gây hại cho ai trên đất Hàn Quốc thì tòa Hàn Quốc cũng không được quyền xử. Quân đội Triều Tiên cũng chỉ tuân lệnh Đảng Lao động và chính phủ nước mình chứ không cần phải tuân theo 1 người Trung Hoa nào hay 1 vị tướng tư lệnh liên quân người ngoài.
Mỹ - Trung đúng là có sức ảnh hưởng rất mạnh lên CHDCND Triều Tiên và Hàn Quốc, nhưng không có nghĩa họ nằm trong tay Mỹ - Trung, không có nghĩa Triều Tiên là một quận huyện của Trung Quốc hay Hàn Quốc là một tiểu bang của Hoa Kỳ. Nhiều người vì không ưa Trung Quốc, Mỹ, hoặc liên tưởng, cố gắng liên kết vấn đề Đông Dương, Việt Nam với vấn đề Triều Tiên, nên đã có phần cảm tính, quá lời khi nói như CHDCND Triều Tiên và Hàn Quốc là hai con rối bù nhìn, vệ tinh của Mỹ - Trung.
Sự thật là không có bằng chứng gì cho thấy Trung Quốc làm chủ ở CHDCND Triều Tiên và Mỹ làm chủ ở Hàn Quốc. Không phải hễ cứ đóng quân là làm chủ, là xâm lược. Số lượng quân Mỹ ở Hàn Quốc trong một thập niên trở lại đây cũng không quá 3 vạn người và hiện nay chỉ có khoảng 1 vạn rưỡi, và họ đóng quân cố định chứ không loạn như ở miền Nam Việt Nam trước 1975.
Các vũ khí của CHDCND Triều Tiên đa số đều là vũ khí cũ của Liên Xô đã cải tiến hoặc tự chế, thấy rất ít vũ khí Trung Quốc. Một số người phương Tây làm việc tại CHDCND Triều Tiên cũng cho biết nước này và Trung Quốc không có quan hệ gì quá thân mật.
Về Hàn Quốc, họ đủ sức tự túc, cho dù Mỹ có buông ra thì họ cũng sẽ chẳng có việc gì với một trong những nền kinh tế lớn mạnh nhất thế giới và nền quốc phòng tiên tiến, hiện đại, với trên 80% vũ khí tự chế. Dù Mỹ buông ra không giúp gì nữa thì Hàn Quốc về tổng thể vẫn có thực lực và mạnh hơn Triều Tiên gấp nhiều lần.
Tại miền Nam Việt Nam dưới thời Mỹ, Nixon đòi cắt đầu Thiệu, "cố vấn" Mỹ cười cợt đòi bắn bỏ Thiệu, Nixon ví ngụy quyền như cái đuôi của mình. Các cấp tổng thống, lãnh đạo, chóp bu, tướng tá sĩ quan ngụy nói những lời gián tiếp hay trực tiếp thú nhận bản chất của mình trên các phim tài liệu, chẳng hạn như phim tài liệu "Việt Nam - Cuộc chiến 10.000 ngày" (Tập đoàn Truyền thông Canada - CBC sản xuất, đạo diễn danh tiếng Micheal MacLear thực hiện vào năm 1980), phát lại một số video phỏng vấn cũ trong thời chiến, đã cho thấy rõ Thiệu - Kỳ trả lời phỏng vấn tự thú nhận rằng mình là bù nhìn, nghị gật, con rối của Mỹ. Những người Mỹ (lãnh đạo và dân thường) chửi ngụy quyền Sài Gòn là bù nhìn. Những biểu ngữ "Fxxx the Saigon puppet government" trên các băng rôn phản chiến v.v. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe các lãnh đạo Mỹ, người dân Mỹ nói gì về Hàn Quốc như thế, cũng chưa nghe các tổng thống, lãnh đạo Hàn Quốc tự thú như vậy.
Một số người cho rằng Hàn Quốc đang là một xã hội thực dân mới, điều này không chính xác. Chế độ thực dân mới là một chế độ chính trị do ngoại bang làm chủ theo mô hình tay sai bản xứ quản lý, mẫu quốc đứng ngoài hưởng thụ lợi ích từ thuộc địa kiểu mới, thỉnh thoảng giám sát, cần thì thay người bằng đảo chính hoặc "bầu cử". CEO bản xứ làm việc, quản lý cho owner (chủ nhân) ngoại bang. Chế độ thực dân kiểu mới (neo-colonialist) thấy rất rõ ở miền Nam nước ta trong thời kỳ 1955-1963 và 1972-1975.
Tuy nhiên, vấn đề tiên quyết là người sống ở đó phải cảm thấy rõ rệt yếu tố ngoại thuộc. Trước năm 1975, người dân miền Nam Việt Nam cảm nhận rất rõ "yếu tố Mỹ", khắp những vùng tạm chiếm đi đâu cũng thấy và gặp người Mỹ, lính Mỹ. Ngày nay ở Hàn Quốc người dân có cảm thấy rõ "yếu tố Mỹ" đó không? Tôi chưa nghe, chưa gặp một sinh viên du học, nghiên cứu sinh, cán bộ ngoại giao người Việt, hay người Hàn nào ở Hàn Quốc bảo rằng Hàn Quốc đang là một hệ thống thuộc địa kiểu mới, đang bị Mỹ xâm lược, chiếm đóng hay đô hộ.
Ngay cả trong giáo dục Việt Nam từ xưa đến nay, trong các môn học về lịch sử thế giới, lịch sử châu Á, cũng chỉ đề cập tổng quát, trung lập, khách quan về cuộc chiến Triều Tiên và các diễn biến lịch sử trên bán đảo này. Hoàn toàn không nói gì về việc Hàn Quốc là tay sai của Mỹ hay Mỹ đã xâm lược gì cả. Cũng không nói gì ai là chính nghĩa. Chỉ trình bày các diễn biến lịch sử một cách khách quan.
Triều Tiên và Trung Quốc cũng không tập trận chung. Hai bên cũng có nhiều quan điểm rất khác nhau và thậm chí mâu thuẫn gay gắt. Hồi trước Triều Tiên đơn phương rút khỏi đàm phán 6 bên trong đó có Trung Quốc. Trong khi Hàn - Mỹ luôn "kẻ tung người hứng" với nhau trên trường ngoại giao quốc tế. Quân Mỹ đóng ở Hàn Quốc và thường xuyên tập trận với nhau.
Trung Quốc phục hồi quan hệ và bang giao với Mỹ từ đầu những năm 1970 để cùng chống Liên Xô và Việt Nam, nhưng Triều Tiên vẫn chống Mỹ. Ngày nay Trung Quốc có quan hệ chiến lược và quan hệ kinh tế chặt chẽ với Mỹ nhưng họ vẫn căm thù Mỹ. Nhìn các động thái ngoại giao thì thấy rõ ràng Trung Quốc và Triều Tiên là hai thực thể độc lập và riêng biệt, có nhiều khác biệt. Trung Quốc đối xử rất chừng mực. Họ muốn duy trì ổn định khu vực để phát triển kinh tế và lợi dụng Triều Tiên làm vùng đệm chống lại sự bành trướng chính trị quân sự của Mỹ và phương Tây. Nhưng không can thiệp nhiều. Họ chỉ tham gia vào khi có gì đó trực tiếp va chạm tới lợi ích của họ.
Dư luận Trung Quốc lâu nay cũng chỉ trích Triều Tiên khá mạnh, họ nuối tiếc sinh mạng 150.000 chiến sĩ Trung Quốc tử trận "chỉ để cứu một chính quyền như vậy". Trương Liễn Khôi, một giáo sư về nghiên cứu chiến lược quốc tế tại trường Đảng trung ương đồng thời là một chuyên gia nghiên cứu Bắc Triều Tiên, nhận xét: Quyết định của Bắc Triều Tiên về ưu tiên phát triển quân đội và vũ khí hạt nhân đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến vận mệnh quốc gia Triều Tiên và tình hình trên bán đảo, thách thức cộng đồng quốc tế, châm ngòi cho một cuộc chạy đua vũ trang ở Đông Bắc Á.
Một bài bình luận trên tờ “Tuần san Phượng Hoàng” trong dịp kỷ niệm 60 năm Chiến tranh Triều Tiên đã viết: “Bất chấp sự hy sinh to lớn của các sinh mạng người Trung Quốc trong cuộc chiến Triều Tiên cũng như những sự hỗ trợ khổng lồ mà Trung Quốc dành cho sau đó, chính quyền Bắc Triều Tiên vẫn không thể hiện được sự cảm kích xứng đáng. Kể từ khi Trung Quốc bắt đầu cải cách và chính sách mở cửa, Bắc Triều Tiên một mặt nhận viện trợ của Trung Quốc, mặt khác chỉ trích công khai ý thức hệ, chính sách Cải cách, lý luận Đặng Tiểu Bình, thuyết Ba đại diện của Giang Trạch Dân và cách đi lên XHCN của Trung Quốc. Họ bỏ phiếu phản đối Bắc Kinh đăng cai Olympic 2000. Các chính sách của họ đặt Trung Quốc trước sức ép quốc tế và gây thiệt hại nghiêm trọng cho hình ảnh của Trung Quốc. Bắc Triều Tiên vẫn phải phụ thuộc tới 90% nguồn dầu mỏ và 80% hàng tiêu dùng vào Trung Quốc trong khi họ chi 25% GDP của mình cho quốc phòng”.
Trong một bài viết khác mang tựa đề “Bắc Triều Tiên-cái bẫy đầu tư”, tờ “Tuần san Phượng Hoàng” nêu ra những câu chuyện đáng buồn của các doanh nghiệp Trung Quốc thiết lập dự án tại Bắc Triều Tiên nhưng trang thiết bị của họ bị tịch thu, tiền bạc bị phong tỏa, các nhà máy phải đóng cửa. Các quy định, luật lệ thay đổi tùy tiện, không thông báo trước và các nhà đầu tư phải tự lo liệu đường xá, nguồn cung năng lượng.
Không ít người Trung Quốc đang đặt câu hỏi tại sao tiền bạc của họ lại bị dùng để hỗ trợ cho một chế độ mà thậm chí không ghi nhận những trợ giúp nhận được. Họ đang đặt câu hỏi tại sao Bình Nhưỡng phớt lờ kêu gọi của chính phủ Trung Quốc từ bỏ vũ khí hạt nhân, theo đuổi hòa bình với các láng giềng mà thay vào đó là những hành động có thể khiến Nhật Bản cũng chế tạo vũ khí hạt nhân. Họ đang đặt câu hỏi liệu như vậy có đáng để 150.000 lính Trung Quốc thiệt mạng trong cuộc chiến cách đây 6 thập kỷ hay không.
Tình hình hiện tại trên bán đảo Triều Tiên
CHDCND Triều Tiên:
Chính trường Triều Tiên không có các thế lực đối lập. Diễn biến hòa bình không lọt vào được. Các thông tin chống đối không có cơ hội phát triển. Những chóp bu lãnh đạo yếu kém về tư tưởng chính trị, biến chất, tha hóa về lối sống đều bị đào thải, loại bỏ, thanh trừng, trừ khử. Những quan chức tham nhũng bằng 1/100 Việt Nam và Trung Quốc thì đã bị tử hình. Luật pháp nghiêm minh, pháp chế nặng nề. Đây thật sự là một chế độ cảnh sát trị và trị quốc bằng bàn tay sắt không cần bọc nhung.
Theo cuốn sách "Cha tôi Kim Jong Il và tôi" viết về Kim Jong Nam, con trai ông Kim Chính Nhật, của tác giả Yoji Gomi, nhà báo của tờ Tokyo Simbun của Nhật, từng có nhiều năm làm thông tín viên tại Hán Thành và Bắc Kinh, thì Kim Jong Nam cho biết nếu không cải tổ thì Bắc Triều Tiên sẽ sụp đổ.
Để thực hiện cuốn truyện này tác giả Gomi đã nhiều lần trao đổi với Kim Jong Nam qua thư từ và những lần phỏng vấn trực tiếp tại Macao, trong đó nhân vật này đã không ít lần đưa ra những nhận định, dự báo về chế độ Bình Nhưỡng. Người con cả của Kim Chính Nhật đặc biệt nhấn mạnh, chế độ Bắc Triều Tiên đang phải đối mặt với sự lựa chọn khó khăn, hoặc là thay đổi, hoặc là sụp đổ. Kim Jong Nam giải thích cái thế nan giải của chế độ là: "Không có cải cách, nền kinh tế sẽ sụp đổ. Nhưng cải cách sẽ dẫn tới khủng hoảng chính trị và sự cáo chung của chế độ".
Người anh cả cùng cha khác mẹ với tân lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Ân, vào giữa thập niên 1990 từng có cơ hội thừa kế quyền lực của cha, nhưng sau đó do có một số hành động bộc lộ tư cách không đàng hoàng và tính cách chỉ biết ăn chơi hưởng thụ, nên bị thất sủng. Từ đầu những năm 2000 đến nay, Kim Jong Nam ra nước ngoài, lập gia đình, có hai con và sống một cuộc sống vương giả ở Macao.
Trong cuốn sách của nhà báo Nhật nói trên, Kim Jong Nam còn cảnh báo tình hình "Bắc Triều Tiên rất bất ổn". Ông nói rằng: "Cha tôi lãnh đạo đất nước bằng chính sách Tiên quân và sự ủng hộ của quân đội, nhưng quân đội lại có quyền lực quá lớn. Nếu việc kế thừa quyền hành thất bại, quân đội chắc chắn sẽ nắm thực quyền và chế độ sẽ biến thành độc tài, quân phiệt".
Trong cuốn sách này, tác giả cũng đã trích dẫn một bức thư trao đổi với Kim Jong Nam mới đây, trong đó người trưởng nam của ông Kim Chính Nhật chỉ trích việc chuyển giao quyền hành theo kiểu cha truyền con nối. Đồng thời, ông cũng hoài nghi về năng lực lãnh đạo đất nước của người em cùng cha khác mẹ là đại tướng Kim Chính Ân, vốn còn quá trẻ.
Xã hội quá thắt chặt về mặt giáo dục và an ninh nên xã hội hiếm có tội phạm. Các tổ chức tội phạm không thành lập nổi, súng đạn không lưu hành ngoài xã hội (luật pháp cấm vũ khí, vũ khí lậu không lưu hành nổi, do đặc thù kinh tế và khả năng kiểm soát kinh tế, chợ đen của nước này), không có tiền để tổ chức các thế lực đen, dù có manh nha thì cũng bị dập tắt ngay từ trứng nước.
Đường phố ít người đi, đô thị bao giờ cũng trống trải, không đi gần nhau nên khó xảy ra trường hợp móc túi, giật dọc, trấn lột. Vả lại văn minh đô thị ở Triều Tiên, đặc biệt là thủ đô Bình Nhưỡng khá tốt nên hiếm xảy ra những trường hợp đó. Hơn nữa cảnh sát nổi, cảnh sát chìm hầu như đâu đâu cũng có, cải trang thành đủ thành phần trong xã hội. Gần 40% dân số là đảng viên và có gắn huy hiệu Kim Nhật Thành khi làm việc, khoảng 10% là quân nhân, thuộc làu và thấm nhuần chủ nghĩa Kim Nhật Thành và tinh thần Chủ thể, nên khó biến chất thành tội phạm.
Bắc Triều Tiên lâu nay luôn nỗ lực xây dựng thủ đô Bình Nhưỡng như một "tủ kính" của đất nước, để khoe với du khách và đưa những hình ảnh này ra trước quốc tế. Xem hình thì thấy rõ thành phố này được quy hoạch rất tốt, hơn xa Việt Nam dù với bao nhiêu chuyên gia quy hoạch nước ngoài. Họ có đường phố khang trang, thoáng mát, rộng rãi và sạch sẽ.
Quân đội CHDCND Triều Tiên được thành lập chính thức vào ngày 8 tháng 2 năm 1948. Tiền thân của nó là lực lượng Quân Tình nguyện Triều Tiên, Quân Hỗn hợp kháng Nhật vùng Đông Bắc, các lực lượng du kích chống Nhật, những cựu chiến sĩ người Triều Tiên phục vụ trong Hồng quân của Liên Xô và Hồng quân Công - Nông của Trung Quốc. Một trong những nhà lãnh đạo của lực lượng du kích là Kim Nhật Thành, người đã tập hợp một nhóm khoảng 300 lính du kích Triều Tiên hoạt động chống phát xít Nhật ở Mãn Châu. CHDCND Triều Tiên có khoảng 3.700 xe tăng, 2.100 xe bọc thép, 4.800 bệ phóng tên lửa, 8.500 pháo tự hành 170 ly và 3.100 thiết bị vượt sông. CHDCND Triều Tiên có 9 sư đoàn thường trực, 4 sư đoàn cơ giới, 1 sư đoàn tăng, 1 sư đoàn pháo binh.
Lực lượng không quân và hải quân của CHDCND Triều Tiên không có gì ấn tượng bởi trang thiết bị và vũ khí đều quá niên hạn sử dụng. Không quân có 30 máy bay ném bom và máy bay trinh sát, 510 máy bay vận tải bao gồm cả máy bay AN-2s và 310 chiếc trực thăng. Tuy nhiên, không quân phải huy động khoảng 30 chiếc máy bay chiến đấu trong tổng số 820 chiếc máy bay tiêm kích để tham gia tuần tiễu. Hải quân có khoảng 60 tàu ngầm, 420 tàu chiến, 260 tàu vận tải và 60 tàu khác cùng 2 sư đoàn đóng ở vùng biển phía đông và phía tây với 12 đội tàu chiến và 2 lữ đoàn bắn tỉa trên biển đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Hải quân. Ngoài ra, CHDCND Triều Tiên còn sở hữu khoảng 2.500-5.000 tấn chất độc gây tê liệt hệ thần kinh, sát thương ngoài da, chất gây nôn và khí cay... Mỹ và Hàn Quốc còn cáo buộc Triều Tiên sở hữu vũ khí vi trùng và nghi ngờ họ sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Sách “Sổ tay Triều Tiên” do cơ quan tình báo CIA biên soạn tính toán: Năm 2002, CHDCND Triều Tiên chi cho quân sự 5 tỷ USD, đứng thứ 22 thế giới. Quân đội Triều Tiên có 1,17 triệu quân thường trực, chiếm 5% dân số, cộng thêm số quân dự bị đông tới 7,5 triệu người. Báo chí Hàn Quốc thì cho rằng CHDCND Triều Tiên đã đạt tới trình độ thành thục trong việc sản xuất các tên lửa tầm ngắn và tầm trung.
Bruce Benard, chuyên gia nghiên cứu của công ty tư nhân Rant (Mỹ) cũng tính toán: Đến năm 2010, CHDCND Triều Tiên có từ 70 đến 95 tên lửa Rodong-1, 50 – 75 Rodong-2, 150-200 tên lửa Taepudong-1, 25-50 tên lửa vượt đại châu. Hiện nay CHDCND Triều Tiên có khoảng 800 quả tên lửa đất đối đất các loại.
Tuy nhiên, giới quân sự trong và ngoài khu vực đặc biệt quan tâm tới kho vũ khí hạt nhân cũng như các loại tên lửa khác của CHDCND Triều Tiên. Giới quân sự đều cho rằng, sau khoảng 30 năm phát triển, công nghệ tên lửa của CHDCND Triều Tiên đã có những bước tiến đáng kể.
Bắc Triều Tiên sở hữu tên lửa Scud do Liên Xô chế tạo, có thể mang đầu đạn hạt nhân, hóa học hoặc sinh học, nhưng sau khi được đưa tới sử dụng tại CHDCND Triều Tiên một thời gian, các nhà khoa học nước này đã nâng cấp và biến nó trở thành cơn "ác mộng" đối với những quốc gia hữu quan.
Dù tiếp nhận tên lửa của Liên Xô từ năm 1969, nhưng những tên lửa Scud đầu tiên mà CHDCND Triều Tiên có được lại đến từ Ai Cập. Chính Ai Cập đã giúp CHDCND Triều Tiên nâng cấp, phát triển hệ thống tên lửa của mình. Đầu những năm 1980, Ai Cập đã cung cấp cho CHDCND Triều Tiên một số tên lửa Scud-B của Liên Xô, có thể mang đầu đạn nặng tới 200kg cùng tầm bắn 300 km. Nhờ đó các nhà máy nghiên cứu, chế tạo tên lửa được xây dựng gần biên giới Trung Quốc đã sản xuất thành công loại tên lửa tự tạo đầu tiên được biết tới dưới tên gọi Hwasong-5.
Năm 1987, CHDCND Triều Tiên đã ký với Iran một hợp đồng mua bán vũ khí với tổng trị giá 500 triệu USD, trong đó có khoảng 100 tên lửa Hwasong-5. Các Tiểu vương quốc Arập Thống nhất cũng từng mua 25 tên lửa Hwasong-5 cùng một số vũ khí khác của CHDCND Triều Tiên.
CHDCND Triều Tiên đã phát triển hai phiên bản mới từ Scud-B thành Scud-C (Hwasong-5) và Scud-D (Hwasong-6). Trong khi Scud-B chỉ bắn ở cự ly 300km thì Scud-C bắn được 500km, còn Scud-D có thể bắn mục tiêu cách xa 700 km. Ngoài ra, CHDCND Triều Tiên còn thử nghiệm loại tên lửa KN-02 có thể bắn tới những mục tiêu ở Hàn Quốc. Sau đó, CHDCND Triều Tiên còn phát triển Scud thành Nodong, Taepodong-1 và Taepodong-2. Tên lửa Taepodong-1 tuy bắn tới Nhật Bản, nhưng không nguy hiểm bằng loại tên lửa Nodong (Rodong). Với tầm bắn 2.000 km, các tên lửa Nodong có thể phá hủy bất cứ mục tiêu nào của Nhật Bản và bất cứ căn cứ quân sự nào của Mỹ trên lãnh thổ Nhật.
Theo nghiên cứu của một trung tâm hạt nhân Mỹ, Nodong có độ chính xác không cao - sai số từ 2 km đến 4 km so với mục tiêu. Tuy bắn không chính xác nhưng Nodong luôn là mối quan tâm hàng đầu của Nhật Bản bởi quốc gia này nằm trọn trong phạm vi "phát huy hiệu quả" của tên lửa này. Nhiều chuyên gia quân sự của Nhật Bản từng khẳng định, các loại tên lửa của CHDCND Triều Tiên dư sức tấn công Nhật Bản, Hàn Quốc, cũng như các căn cứ quân sự Mỹ đặt trên lãnh thổ 2 quốc gia kể trên. Triều Tiên thì tuyên bố họ có thể thiêu rụi Tokyo và Seoul thành tro bụi chỉ trong tích tắc, và có thể bắn tới Hawaii và Alaska của Mỹ nếu muốn.
Kể từ khi CHDCND Triều Tiên bắn thử tên lửa Nodong có khả năng mang đầu đạn hạt nhân vào tháng 3/1993, loại vũ khí này nhanh chóng chiếm vị trí quan trọng trong kho vũ khí của họ. Sau đó, Triều Tiên còn mời chuyên gia quân sự Iran và Pakistan tới quan sát vụ bắn thử tên lửa Nodong. Được biết, tên lửa Nodong có thể mang theo một đầu đạn nặng 1.200 kg cùng tầm bắn 1.300 km, hoặc một đầu đạn nặng 1.000kg với tầm bắn 1.500km. Có tin nói rằng, tên lửa Ghauri (còn gọi là Hatf-5) của Pakistan được nghiên cứu, chế tạo thành công sau khi mua tên lửa Nodong của CHDCND Triều Tiên.
Bộ Quốc phòng Hàn Quốc từng cho rằng CHDCND Triều Tiên sở hữu khoảng 600 tên lửa Scud và 100 tên lửa Nodong. Trong khi đó các nước phương Tây lại tuyên bố, CHDCND Triều Tiên sở hữu hơn 800 tên lửa đạn đạo các loại, trong đó bao gồm cả Taepodong-2. Nhưng theo thông tin của Mỹ thì CHDCND Triều Tiên sở hữu hơn 1.000 tên lửa Nodong và tên lửa Scud. Ngay từ năm 1965, Chủ tịch Kim Nhật Thành lúc đó đã cho thành lập Học viện Quân sự Hamhung để nghiên cứu công nghệ tên lửa nhằm sản xuất loại tên lửa có khả năng bắn tới Nhật Bản.
Giới truyền thông từng đưa tin, tướng Park Jae-kyung, tướng Hyun Chul-hee và tướng Lee Myong-su, 3 người thường xuất hiện bên cạnh Chủ tịch Kim Chính Nhật chính là những "cha đẻ" của chương trình vũ khí chiến lược hạt nhân và tên lửa tại CHDCND Triều Tiên. Ngoài ra, còn phải kể tới 2 nhà bác học Do Sang-rok và Seo Sang-guk. Cả 2 nhà bác học này đều từng giảng dạy tại Trường đại học Kim Nhật Thành cho dù họ hơn kém nhau tới 30 tuổi. Được biết, ông Do Sang-rok tuy sinh năm 1903 tại CHDCND Triều Tiên nhưng lại trưởng thành ở Hàn Quốc sau đó quay trở lại CHDCND Triều Tiên từ năm 1946 và đã chết năm 1990.
Ông Do Sang-rok được Chủ tịch Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật đặc biệt coi trọng, quý mến. Còn ông Seo Sang-guk được coi là người đi đầu trong việc chế tạo bom hạt nhân và từng được Kim Chính Nhật tặng quà năm 1998 vì những cống hiến cho công cuộc phát triển khoa học quốc gia.
Quân đội vừa đông đảo vừa tinh nhuệ, huấn luyện tốt. Tuy nhiên, một số vũ khí, nhất là xe tăng, thiết giáp đã lỗi thời và khá cũ kỹ. Có dàn phòng thủ tốt, vô số dàn tên lửa tầm ngắn, tầm xa đang chỉa thẳng vào các hải đảo, vùng biên giới của Hàn Quốc và cả Seoul, Tokyo, và có thể cả Hawaii và Alaska như họ tuyên bố. Đây là điều mà Mỹ - Nhật - Hàn rất ngán và chưa dám vọng động, gây chiến là vì vậy. Dù chiếm được Triều Tiên thì họ cũng sẽ phải trả một giá rất đắt, kinh tế vẫn chưa phục hồi hoàn toàn sau khủng hoảng có thể sẽ sụp đổ hoàn toàn, đưa tới thảm họa kinh tế khu vực và toàn cầu, lợi bất cập hại. Chưa kể Triều Tiên khá cuồng tín và bao giờ cũng sẵn sàng "lưỡng bại câu thương".
Hầu hết các vũ khí hạng nhẹ và cả hạng nặng của Triều Tiên là tự sản xuất, kể cả các vũ khí cá nhân và đặc biệt là các hệ thống tên lửa, vũ khí chiến lược của họ. Ngoài ra, họ còn có lực lượng vũ khí đặc biệt, cấu thành từ 2 bộ phận: Tác chiến và phòng chống chiến tranh hóa học; tác chiến và phòng chống chiến tranh sinh học. Hiện nay bộ phận này có hàng ngàn đạn pháo mang tác nhân sinh hóa, cũng như nhiều vũ khí sinh hóa có khả năng hủy diệt hàng loạt.
Để đối phó với những kẻ địch có sức mạnh quân sự, có thực lực kinh tế, có trình độ phát triển, và quân số cao hơn gấp nhiều lần, họ đã thực hiện chiến lược "chiến tranh phi đối xứng" (Asymmetric warfare) và chiến tranh không quy ước để chống lại những quân thù mạnh hơn, bằng cách sử dụng những khoa học kỹ thuật công nghệ và vũ khí đặc biệt, độc đáo như hệ thống phá (jam, gây nhiễu) định vị toàn cầu và sóng ra-đa, sơn ngụy trang tàng hình (một loại hóa chất đặc chế để tránh bị ra-đa phát hiện), tàu ngầm lưu động, ngư lôi cảm tử, và nhiều vũ khí hóa học, sinh học và tia laser, bất chấp lệnh cấm phát triển vũ khí laser của Liên Hiệp Quốc (mà CHDCND Triều Tiên là 1 thành viên) và việc họ đã ký vào Hiệp ước không phổ biến vũ khí sinh học.
Họ cũng đã chuẩn bị sẵn sàng cho những cuộc chiến tranh hóa học, chiến tranh khí tượng, chiến tranh điện tử mà Mỹ đã áp dụng tại Việt Nam và nhất là rất thành công ở Iraq (chiến tranh điện tử, gây tê liệt cho các vũ khí cần dùng hệ thống điện tử của Iraq, hầu hết các vũ khí mua từ Pháp của Iraq đều trở nên bất khiển dụng khi Mỹ mở cuộc đột kích bất ngờ).
Ngoài ra, họ cũng nghiên cứu và phát triển áp dụng chiến tranh mạng với Mỹ, có một số thông tin từ Mỹ cho rằng họ đã bí mật nghiên cứu chung với các lực lượng khủng bố Hồi giáo cực đoan về chiến tranh mạng với Mỹ. Đây là một lợi thế của họ, vì ở nội địa Bắc Triều Tiên không phổ biến mạng lưới Internet. Tương tự như chiến trường ngoài đời, trên chiến trường online trên Internet giữa các hackers, họ không có nhiều thứ để mất, trong khi Mỹ - Hàn - Nhật có rất nhiều thứ để mất. Chỉ một vài website giao dịch, của các tập đoàn kinh tế lớn, của chính phủ, nhà nước v.v. sụp đổ, tê liệt lâu ngày và liên tục thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế, đây gần như là vấn đề sinh tử của các nước có nền kinh tế thị trường.
Từ thập niên 1980, trong lúc Internet chỉ mới được sử dụng hạn chế trong quân đội Mỹ, chưa dân sự hóa, xã hội hóa, thì các điệp viên Triều Tiên đã tiến hành nghiên cứu và Bộ quốc phòng Bắc Triều Tiên đã bắt đầu phát triển dự án chiến tranh mạng. Tới năm 2011, Bắc Triều Tiên đã đào tạo được khoảng 1100 hacker quân sự, hackers đặc biệt. Đó là lý do lâu nay CHDCND Triều Tiên luôn ưu tiên cho những học sinh, sinh viên có năng khiếu về kỹ thuật vi tính, ai bộc lộ tài năng về máy tính thì sẽ được chú trọng đào tạo về chuyên môn này và được miễn nhiều môn học khác.
Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng từng cáo buộc, kết tội Bắc Triều Tiên và Iran đã âm mưu tiến hành một cuộc chiến tranh ngầm, cuộc chiến tranh kinh tế để chống lại nước này bằng cách in "siêu đô la" (tờ $100 đô la Mỹ, tiền giả như thật, tiền giả siêu cấp chỉ có 1 ngân hàng trung ương của chính phủ Mỹ mới có máy phát hiện), hòng phá hoại nền kinh tế của Mỹ, nhất là trong các thời kỳ khủng hoảng.
Ngoài một vài nước như Trung, Nga, và vài nước trung lập ở châu Âu, Nam Mỹ, họ bất lực trong việc thiết lập được quan hệ ngoại giao rộng rãi với các nước khác. Do bị các cường quốc thao túng, ngồi trên đầu trên cổ, chèn ép, cấm vận, cô lập, họ phản kháng bằng lý thuyết Chủ thể của Kim Nhật Thành và áp dụng một chính sách "cứng chọi cứng", tự cô lập bản thân, đóng cửa. Cùng với những tuyên bố ngoại giao không mấy khôn khéo và có phần cực đoan quá khích, dễ bị lợi dụng làm công cụ tuyên truyền chống họ.
Xã hội trật tự, kỷ cương, kỷ luật sắt, nề nếp đâu ra đó. Ít tội phạm, ít tệ nạn, tệ đoan, buôn lậu, không có nạn ma túy, không có súng đạn bất hợp pháp, không mại dâm, không có bệnh Sida (theo phỏng vấn của một số phóng viên phương Tây ở Triều Tiên, nhiều người dân và chiến binh còn không biết bệnh Sida là bệnh gì, và không hề có khái niệm về đồng tình luyến ái). Môi sinh không bị ô nhiễm. Không kẹt xe. Ít tai nạn giao thông. Không người bụi đời vô gia cư, ăn mày, thất học, chỉ có dưới 1% mù chữ.
Nhưng trái lại quá mất tự do cá nhân, gần như biến con người thành những người máy. Điện thoại di động và Intranet có, nhưng không có đầy đủ Internet (có một ít trang mạng cho người nước ngoài đọc nhưng người trong nước không thể truy cập các trang mạng nước ngoài). Nghe phong thanh rằng bên trong Triều Tiên cũng có thể truy cập các trang web bên ngoài nhưng bị hạn chế, chỉ dành cho các nhân viên ngoại giao của chính phủ.
Bắc Triều Tiên xem chế độ gia đình là dấu vết phong kiến, và là một định chế, phong tục tập quán đã lỗi thời. Kim Nhật Thành từng nói: “Gia đình phải là một phòng thí nghiệm thực thi lý thuyết cách mạng xã hội." Tại Bắc Triều Tiên, trẻ em từ 3 tháng đến 5 tuổi được các ký nhi viện của chính phủ chăm sóc, từ 6 tuổi trở lên được đào tạo trong các trường học do chính phủ cung cấp.
Xã hội không có văn hóa lai căng từ ngoại quốc truyền vào. Về cơ bản vẫn giữ nguyên văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Cao Ly. Không "lộ hàng", không porn, không clip quay lén, không có những scandal xấu, nhìn chung cả xã hội có vẻ lành mạnh, không bị ô nhiễm bởi văn hóa tiêu cực, hiện sinh, yêu cuồng sống vội, quan hệ bầy đàn của phương Tây. Phim ảnh, sách báo khiêu dâm, truyện con heo, nha phiến, thuốc lắc v.v. không có môi trường phát triển. Không có các vũ trường thác loạn, nhưng vẫn có một số vũ trường hoạt động hạn chế, khiêu vũ như thời 1970, 1980, chủ yếu dành cho du khách nước ngoài. Tuy nhiên có phần bó buộc và thiếu tự do.
Căn cứ vào các clip trên Internet du khách nước ngoài quay trong các trường lớp Triều Tiên, thì có thể thấy các lớp học của họ rất ngăn nắp, sạch sẽ, trật tự. Thầy cô và học sinh đều vui vẻ tươi cười, hoạt bát nói chuyện, thông thạo Anh văn. Các bàn ghế gỗ mới. Nhiều phòng đại học có trang bị máy vi tính, laptop cho mỗi bàn học, đặc biệt là trường đại học Kim Nhật Thành, đại học chất lượng nhất cả nước, dành cho những học viên trung thành và ưu tú nhất trên toàn quốc. Các trường lớp có vẻ cũng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Trường này có cả hệ thống hồ bơi được thiết kế khá đẹp mắt.
Theo hồ sơ về CHDCND Triều Tiên trong thư viện Quốc hội Mỹ (Library of Congress), thư viện lớn nhất nước Mỹ và một trong những thư viện lớn nhất thế giới, thì giáo dục tại CHDCND Triều Tiên là miễn phí cho đến hết đại học và bắt buộc cho đến trung học, từ năm 1990 bắt đầu cung cấp đồng phục miễn phí cho học sinh và sau đó là một vài y phục miễn phí cho toàn dân, luật Triều Tiên bắt buộc mỗi người dân ra đường phải ăn mặc tươm tất, để làm đẹp quốc gia, thành phố, nhất là trước con mắt và ống kính của khách du lịch và phóng viên quốc tế. Cách giáo dục áp dụng khả năng nghiệm suy để học sinh tích cực trong việc phát triển tính độc lập và sáng tạo của mình. Giáo dục bắt buộc kéo dài mười một năm, bao gồm một năm mẫu giáo, bốn năm giáo dục tiểu học và sáu năm giáo dục trung học.
Tại tiểu học, 8% của chương trình học là về chủ tịch Kim Nhật Thành và đạo đức cộng sản, đạo đức cách mạng. Tại trung học, các môn học về chủ tịch Kim Nhật Thành, đạo đức công dân, đạo đức cộng sản, và Cương lĩnh của Đảng Cộng sản chiếm 5,8%. Cao học không bị bắt buộc tại CHDCND Triều Tiên. Nó chia thành hai hệ thống: Học tập giáo dục đại học và học giáo dục đại học để tiếp tục học cao hơn. Học tập giáo dục đại học bao gồm ba loại trường đại học, trung học chuyên nghiệp, và trường kỹ thuật. Tốt nghiệp thạc sĩ và nghiên cứu cấp tiến sĩ thuộc về trường đại học, hai trường đại học chất lượng cao đáng chú ý ở Triều Tiên là Đại học Kim Nhật Thành và Đại học Khoa học và Công nghệ Bình Nhưỡng, cả hai đều ở Bình Nhưỡng.
Trường Đại học Kim Nhật Thành gồm rất nhiều khoa như: Kinh tế, lịch sử, triết học, luật, ngoại ngữ (chủ yếu chú trọng vào tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung), văn học, địa lý, vật lý, toán, hóa, năng lượng hạt nhân, sinh học, và khoa học máy tính. Để bắt kịp thời đại thông tin, sinh viên đại học nào có tài về máy tính sẽ được miễn nhiều môn như lý, hóa, sinh, ngoại trừ môn học chính và môn "Lịch sử cách mạng của Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật".
Bởi vì sự nhấn mạnh vào việc giáo dục liên tục cho tất cả các thành viên của xã hội nên việc giáo dục học tập khi trưởng thành hoặc làm việc nghiên cứu luôn được hỗ trợ tích cực. Trên thực tế, tất cả mọi người trong nước tham gia trong một số hoạt động giáo dục, thường là dưới hình thức "nhóm nghiên cứu nhỏ".
Đầu những năm 1990, người dân ở các vùng nông thôn đã được tổ chức vào "gia đình năm người", những nhóm này có chức năng giáo dục và giám sát. Nhân viên văn phòng và nhà máy có hai giờ để học thêm sau khi làm việc mỗi ngày về các chủ đề chính trị và kỹ thuật. Các "nhà máy kiến thức" được mở cho các công nhân học thêm các kỹ năng mới mà không cần phải nghỉ việc. Học sinh làm việc bán thời gian, nghiên cứu vào buổi tối, hoặc có những khóa học ngắn hạn chuyên sâu, có thể nghỉ làm việc trong một tháng hoặc lâu hơn. Các "nông trang kiến thức" cũng được mở nơi lao động nông thôn có thể học để trở thành kỹ sư và trợ lý kỹ sư. Đối với công nhân và nông dân không nhận được giáo dục phổ thông thì có "trường học cho người lao động" và "trường dạy nghề cấp cao người lao động".
Học sinh trung học phải làm việc ít nhất từ 8 đến 10 tuần lễ mỗi năm tại các xí nghiệp, các cơ sở kỹ nghệ. Ngoài những cơ sở giáo dục thường, đại học xí nghiệp được thành lập để đào tạo nhân công không có trình độ giáo dục phổ thông. Năm 1965, Bắc Triều Tiên có 37 trường Đại học Xí nghiệp với hơn 12.000 sinh viên, năm 1975, 80 trường với trên 23.000 sinh viên. Đại học Kim Nhật Thành, Hàn lâm viện Khoa học, Hàn lâm viện Khoa học Xã hội là những cơ sở giáo dục và nghiên cứu cao cấp, chất lượng tốt.
Nhà nước CHDCND Triều Tiên tổ chức 8.600 Vườn trẻ năm 1970 với khoảng 1,2 triệu trẻ em, 6.800 trường mẫu giáo với khoảng 950.000 em, đến năm 1980 số lượng Vườn trẻ và mẫu giáo lên đến 60.000. Triều Tiên còn trao đổi sinh viên và giáo sư, giáo viên với các nước như Liên bang Xô viết, Trung Quốc, Cuba, và các nước Đông Âu để du học, giảng dạy, nghiên cứu. Các giáo viên, chuyên gia, du sinh nước ngoài đều công tác và học hành trong Trường Đại học Kim Nhật Thành.
Theo hồ sơ công khai "The World Factbook" của cơ quan CIA năm 2009, Bắc Triều Tiên là một trong những quốc gia có học thức cao nhất trên thế giới, với một tỷ lệ biết chữ trung bình là 99%.
Hàn Quốc:
Tình hình chính trị của họ nhìn chung là khá ổn định nhưng nội bộ thường dễ mất đoàn kết, tranh giành quyền lực, tố nhau khá nhiều, đôi khi dùng những thủ đoạn dơ bẩn (dirty tactics) để ám hại nhau. Ai bất lợi cho Mỹ và phương Tây hầu như chỉ tồn tại được 1 nhiệm kỳ, sau đó đều "thất cử".
Nạn bạo hành đường phố, giật đồ, móc túi, trộm cắp, cướp bóc, trấn lột giữa ban ngày vẫn hoành hành. Những vụ án cướp của giết người, cưỡng hiếp, xâm hại tình dục xảy ra thường xuyên. Kinh tế phát triển cao nhưng đạo đức và các giá trị truyền thống càng lúc càng suy đồi và xuống thấp. Nhiều người bị nói xấu trên blog, bị gởi thơ đe dọa, đeo bám khủng bố tâm lý, khiến họ không chịu nổi phải tự tử. Hàn Quốc là một trong những quốc gia có tỷ lệ tự sát cao nhất thế giới, nhất là trong giới nghệ sĩ, giải trí, hot boy, hot girl. Nhiều người bị bắt cóc biệt tích, đến nay vẫn không có tung tích. Trong số các nạn nhân có cả người Việt ở Hàn Quốc. Hầu hết đều bị mất tích một cách kỳ lạ và cảnh sát bất tài vô dụng không điều tra ra (hoặc giả có nguyên nhân mờ ám nào đó). Người Hàn Quốc bị bắt cóc nhiều nhất, sau là người Nhật. Các báo chí, truyền thông chính thống của Hàn Quốc thường quy kết và cáo buộc Bình Nhưỡng đã làm những hành động khủng bố này nhưng không có bằng chứng rõ ràng. Lạ một điều là hầu hết những nạn nhân bị bắt cóc đều là người châu Á (Hàn, Nhật, Hoa, Việt), hiếm có người phương Tây nào bị, và không có người Mỹ nào bị. Trong khi ở Bắc Triều Tiên, vốn thường được coi là "nơi nguy hiểm" thì lại chưa có ngoại kiều nào bị bắt cóc, cho thấy ở Nam Triều Tiên cũng không hẳn là an lành.
Quân đội Hàn Quốc, tên chính thức là Quốc quân Đại Hàn Dân Quốc, ban đầu được xây dựng từ những tân binh, dân binh, nghĩa binh, lực lượng tự vệ được chính quyền mới của Lý Thừa Vãn tuyển mộ. Tuy nhiên, quân đội này đã bị quân đội Triều Tiên đánh tan trong giai đoạn 1 của cuộc chiến Triều Tiên. Sau trận tử thủ Phú Sơn, quân đội này về cơ bản đã tan rã, Mỹ và Liên Hiệp Quốc phải nhảy vào tiếp cứu. Trong giai đoạn 2 của cuộc chiến Triều Tiên, quân đội này không còn bao nhiêu thực lực.
Sau khi Hiệp định đình chiến được ký (16/5/1953), quân đội Hàn Quốc được tái thành lập và xây dựng lại từ đầu. Đến nay nước này có một lực lượng quân sự mạnh với mức đầu tư trong 10 nước đứng đầu (tính theo GDP). Lục quân Hàn Quốc có 670.000 binh sĩ, trong đó 140.000 lính nghĩa vụ và 4 triệu quân dự bị (theo thống kê của năm 2006). Số quân trên được phiên chế thành 3 quân đoàn, 11 binh đoàn, 49 sư đoàn và 19 lữ đoàn. Lục quân sở hữu 4.850 xe tăng, xe thiết giáp (trong đó đáng chú ý có loại T-80U, M48 Patton, K1, K1A1, K2 và XK2 Black Panther). 10.774 pháo các loại, 7.032 tên lửa (trong đó đáng chú ý có Patriot, MIM-23B Hawk và 3 loại tên lửa vác vai là Stinger của Mỹ, Mistra của Pháp và Javelin của Anh). Họ còn có khoảng 13.000 vũ khí bộ binh khác. Phương tiện chiến đấu chủ yếu của Hàn Quốc là xe tăng đổ bộ K-200 (KIFV) được thiết kế dựa trên phiên bản AIFV của Mỹ và được đưa vào hoạt động năm 1985.
Hải quân Hàn Quốc có 68.000 binh sĩ, trong đó có 25.000 thủy quân lục chiến cùng 170 tàu chiến các loại. Hải quân được chia thành 3 hạm đội. Do có Hạm đội 7 của Mỹ đóng gần Nhật Bản nên Hàn Quốc không chú trọng phát triển lực lượng hải quân. Nhiệm vụ chủ yếu của hải quân là phòng vệ ven biển. Tuy nhiên, Hàn Quốc thời gian gần đây rất chú trọng tăng cường sức mạnh cho lực lượng hải quân. Họ có hơn 20 tàu ngầm và 69 tàu chiến trên mặt nước
Không quân Hàn Quốc có hơn 600 máy bay các loại, trong đó có loại F-15K Slam Eagle do Boeing sản xuất và T-50 Golden Eagle. Họ chủ yếu được trang bị bằng máy bay sản xuất từ Mỹ, nhưng Hàn Quốc thời gian gần đây đã phát triển ngành công nghiệp sản xuất máy bay riêng của mình. Họ có 460 máy bay chiến đấu và máy bay trực thăng, trong đó có 195 chiếc F-5 và 60 chiếc F-16, một số được lắp đặt trong nước. Quân đội Hàn Quốc có nhiều máy bay chiến đấu và vận tải. Hải quân cũng sở hữu phi đội bay hùng hậu.
Nhờ ưu thế của một nền kinh tế lớn nên quân đội Hàn Quốc luôn nằm trong danh sách những quốc gia đầu tư lớn cho quốc phòng, thậm chí có thời kỳ nước này nằm trong top 10 nước đứng đầu thế giới về ngân sách quân sự.
Theo phân tích của nhiều chuyên gia quân sự, Hàn Quốc sẽ sớm trở thành một trong 10 quốc gia xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế giới. Khách hàng chủ yếu của Hàn Quốc là những quốc gia thuộc khu vực Trung Đông và đồng minh của Mỹ và họ chủ yếu mua súng tự động, máy bay và tàu hải quân.
Đây là một quân đội hùng mạnh trên giấy, thiện nghệ trong quân trường, tinh nhuệ trong tập trận. Nhưng chưa ai biết khi vào thực chiến thì sẽ thể hiện một phong độ chiến đấu ra sao. Kim Chính Nhật từng nói đại ý "đám bát nháo quân đội thuộc địa Hàn Quốc chỉ là những con hổ giấy không có gì phải sợ". Công nghiệp, quân đội, ngân sách, thực lực quốc phòng mạnh, khoảng 80% vũ khí tự sản xuất. Quân số, tỷ lệ quân - dân, tỷ lệ phần trăm ngân sách quốc phòng cũng thuộc loại cao. Vũ khí tối tân. Trang bị đầy đủ, hiện đại. Huấn luyện tốt, khoa học. Tinh thần và lý tưởng chiến đấu là một dấu hỏi, có đụng trận mới biết thấp cao.
Về công tác ngoại giao, Hàn Quốc khá khôn khéo và có quan hệ tốt đẹp và sâu rộng với hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả Trung Quốc, Nga, và Việt Nam. Họ có vị thế vững chắc và khá cao trong Liên Hiệp Quốc và trên trường quốc tế. Tuy nhiên, họ yếu bóng vía trước Mỹ, nhường nhịn, lép vế Mỹ, làm gì cũng phải ngó mặt Mỹ, tham khảo ý kiến Mỹ.
Họ có nền kinh tế lớn thứ 10 thế giới và thứ 3 châu Á. Tuy nhiên, cũng như bao nhiêu nền kinh tế tư bản khác, để cho tài phiệt tư bản, tư sản mại bản, tư bản nước ngoài nhiễu loạn, thao túng thị trường, do đó họ bị ảnh hưởng rất nặng nề và trực tiếp từ sự khủng hoảng kinh tế tư bản ngay khi nó mới bắt đầu lan ra từ Mỹ. Có phần tự do kinh tế quá trớn và kiểm soát kém, vai trò nhà nước không rõ ràng. Vụ thịt bò điên Mỹ được nhập khẩu Hàn Quốc bất chấp bao nhiêu cuộc biểu tình phản đối, cho thấy lợi ích của người dân Hàn, của tư sản dân tộc Hàn vẫn nằm dưới lợi ích tư bản phương Tây, đặc biệt là tư bản Hoa Kỳ.
Nếu như bên Triều Tiên cực đoan thắt chặt mọi thứ nhưng bù lại đưa ra kết quả khả quan về an toàn xã hội, an ninh văn hóa, thì Hàn Quốc cũng cấm đoán về chính trị, cấm cản, chặn website, đặt tường lửa các trang web thân Cộng, thân Triều Tiên, chống Hàn, các sách báo về chủ nghĩa Marx, nhưng các đặc điểm xã hội về môi trường, chống tệ nạn, an ninh, chống tội phạm, chống ma túy, thậm chí cả nếp sống văn minh đô thị cũng không bằng Triều Tiên.
Khi kinh tế phát triển cũng là lúc xã hội Hàn Quốc bắt đầu thay đổi, với những hiện tượng sau:
1. Tư tưởng truyền thống và đạo đức xã hội ngày càng xuống, xuất hiện khuynh hướng lai căng hóa, Mỹ hóa, Tây hóa.
2. Dân số kỹ nghệ ngày càng cao.
3. Biến chuyển xã hội nhanh chóng, nhịp sống nhanh hơn, xuất hiện lối sống gấp sống vội, và sự xuất hiện của giai cấp bóc lột mới, thụ hưởng trên sự lao động của công nhân.
4. Thành thị hóa và sự di chuyển dân thôn quê đến thành thị.
5. Tầng lớp trung lưu xuất hiện.
6. Khoảng cách giữa nông thôn và thành thị ngày càng thu hẹp. Nhưng khoảng cách giàu nghèo ngày càng rộng.
7. Tuy phụ nữ chưa đạt được vị thế nam nữ bình quyền, nhưng vai trò của họ ngoài xã hội cũng như trong gia đình có tiến bộ nhiều. Vị thế của phụ nữ ngày càng nâng cao. Tuy nhiên tình trạng bán dâm kiểu mới và các đường dây mại dâm cao cấp bao gồm đa số diễn viên, ca sĩ, hoa hậu, á hậu, nhân vật của công chúng v.v. vẫn hoành hành. Rất nhiều phụ nữ là nạn nhân của bạo hành, cưỡng dâm, cưỡng bức tình dục trong điện ảnh, dùng tình dục đổi vai diễn, bằng cấp, danh vọng, tiếng tăm, tiền tài, vật chất và một số quyền lợi khác trong xã hội. Nhiều phụ nữ đã tự sát hoặc bị mưu sát vì nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là những phụ nữ của công chúng. Hàn Quốc là một trong những nơi có tỷ lệ người tự sát cao nhất thế giới. Đời sống tình dục "thoáng" hơn, buông thả hơn, đức hạnh, trinh tiết không còn là một đức tính được xem trọng, mặc dù mức độ ly dị vẫn thấp so với mặt bằng thế giới, vì thế tỷ lệ ngoại tình tăng cao, đưa đến tỷ lệ đánh ghen, những vụ án ẩu đả, hành hung, đâm chém, đấu súng, giết người, đốt nhà, hãm hại, án mạng vì ghen tuông cũng tăng theo. Những phụ nữ quan hệ tình dục với người Mỹ, lính Mỹ bị dư luận xã hội tẩy chay. Trẻ em có cha Mỹ bị dư luận xã hội khinh bỉ, mặc dù không có sự bất bình đẳng trong chính sách chung.
8. Quan niệm, tác phong, phong thái hiện đại của xã hội mới, dần xa rời những lối mòn và hủ tục phong kiến, mê tín dị đoan.
Trong công việc quản lý văn hóa xã hội, họ cũng có những nỗ lực cấm đoán. Đăng ký blog phải điền lý lịch thật ngoài đời, các thông tin liên lạc thật, phải có thẻ căn cước cá nhân (ID)... Youtube Hàn Quốc có dạo bị chặn không thể truy cập. Nhưng vẫn là một xã hội khá xô bồ, một bộ phận thác loạn, có một dạo các nhân vật VIP trong làng giải trí đua nhau tự tử, và tình trạng tự tử này hiện vẫn còn. Văn hóa thiếu lành mạnh. Công nghiệp mại dâm, tình dục, phim porn, sách báo khiêu dâm (trong đó có cả truyện tranh dành cho thiếu nhi, gồm cả truyện Hentai khiêu dâm Nhật truyền vào Hàn Quốc) vẫn có đầy ở Hàn Quốc. Những văn hóa, văn hóa phẩm tiêu cực, độc hại ở Hàn Quốc hiện lây lan sang nhiều nước khác, trong đó có cả Việt Nam, đây là một vấn đề báo động.
Đa số người Triều Tiên theo Phật giáo, nhưng chính quyền Hàn Quốc lại thiên vị Tin Lành, do họ từng góp sức nhiều trong phong trào chống Nhật trong thời kỳ bị đô hộ, từng giúp đỡ, nuôi giấu nhiều chính trị gia, nhân sĩ, trí thức hoạt động kháng Nhật. Lý Thừa Vãn, tổng thống đầu tiên của Đại Hàn Dân Quốc cũng theo đạo Tin Lành và có những chính sách biệt đãi, thiên vị cho Tin Lành ngay từ đầu. Sau đó nhiều tổng thống kế nhiệm cũng theo Tin Lành và có nhiều chính sách ưu đãi, ưu tiên cho tôn giáo này. Do đó mà ở Hàn Quốc thỉnh thoảng vẫn xảy ra các biểu tình lớn của giới Phật giáo, gồm các nhà sư, tăng ni và các Phật tử chống chính phủ, nhất là trong thời Lý Minh Bác, vốn cũng là một tín đồ Tin Lành. Đa số các cuộc biểu tình này không chỉ chống Tin Lành, chống Lý Minh Bác, chống chính phủ Hán Thành, chống chính sách của chính phủ, chống sự bất công về tín ngưỡng, đòi tự do tôn giáo, bình đẳng tín ngưỡng, mà họ còn chống cả sự tồn tại quân sự và chính trị của Hoa Kỳ trên đất Hàn Quốc, họ cho rằng chính phủ Mỹ theo chủ nghĩa tư bản vật chất và thiên vị Thiên Chúa giáo nên muốn chống Phật giáo Hàn Quốc, đặc biệt dưới thời tổng thống Bush (cả cha và con).
Giáo dục ở Hàn Quốc có chất lượng rất cao. Đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nhiều trường không thua kém các nước phương Tây. Nền giáo dục hầu như mô phỏng rập khuôn Mỹ, tuy nhiên đó chưa chắc là điều không tốt. Rất nhiều sinh viên Việt Nam đã, đang, và có kế hoạch sẽ nghiên cứu, du học tại Hàn Quốc.
Tương lai mờ mịt của bán đảo Triều Tiên
Có lẽ Mỹ sẽ không bao giờ dám động thủ với Triều Tiên như đã từng với nhiều nước khác trên thế giới. Không ai rõ bao nhiêu dàn tên lửa đang nhắm vào thủ đô và các thành phố lớn nhất của Hàn và Nhật, ngay cả Mỹ có thể cũng đang bị đặt trong tầm ngắm. Cũng không ai rõ Bắc Triều Tiên có tên lửa đầu đạn nguyên tử và vũ khí hủy diệt hàng loạt hay không. Nếu có thật mà nếu chiến tranh xảy ra thì Đông Kinh, Hán Thành chuẩn bị biến mất trên bản đồ thế giới. Mỹ - Hàn - Nhật không dại dột và dám mạo hiểm như vậy, trừ phi chính phủ nhà Kim tự sụp đổ.
Nếu đấu pháo, đấu tên lửa với nhau thì ai chịu kết quả thảm hại hơn? Triều Tiên đã chuẩn bị hơn 50 năm nay và xây dựng thủ đô Bình Nhưỡng đặc biệt để tránh bom, tránh pháo kích, tên lửa từ Nhật, Hàn, Mỹ. Trong khi Seoul và Tokyo lâu nay chỉ chủ yếu hưởng thụ và làm kinh tế. Seoul toàn là nhà cao tầng san sát nhau, chỉ dính vài miểng tên lửa sát thương cao là "thi đua" kéo nhau đổ nhào như Domino hết. Trong khi Bình Nhưỡng có nhiều hầm trú ẩn, những khu sinh hoạt dưới lòng đất đã được xây dựng từ lâu để chuẩn bị cho chiến tranh.
Mỹ, Hàn, Nhật lại đều là những quốc gia thích làm giàu, chú trọng làm ăn kinh tế là chính, thích hưởng thụ và sống hưởng thụ đã quen, lại sợ chết, sợ đau, trong khi Bắc Triều Tiên là một kẻ "cùi không sợ lở", "điếc không sợ súng", sẵn sàng "thí mạng cùi". Liệu Mỹ - Hàn - Nhật có sẵn sàng "dây với hủi", "cùng nhau rơi xuống nước", "ôm nhau chết chung"?
Do đó có lẽ sẽ không xảy ra chiến tranh Triều Tiên mà nhiều người lo sợ. Đơn giản là vì bao nhiêu tên lửa, vũ khí chiến lược của Bình Nhưỡng đang đặt Hàn Quốc, Nhật Bản trong tầm ngắm và vì thế Mỹ và 2 em trai sẽ không dám động binh.
Diễn biến hòa bình thì không len lỏi vào được để giật sập chế độ, vì Bắc Triều Tiên luôn kín cổng cao tường, đóng kín, đóng chặt. Diễn biến quân sự thì cũng không xong, không khéo họ sẽ phản ứng bằng cách phóng hỏa, dùng vũ khí nguyên tử. Bắc Triều Tiên đúng là một cái gai trong mắt Mỹ mà không biết cách nào nhổ đi.
Các chiến binh Triều Tiên tham chiến giúp Việt Nam trên chiến trường miền Bắc chống không quân Mỹ đã cho chúng ta thấy sức chiến đấu, tinh thần chiến đấu dũng cảm, gan lỳ của họ. Tuy nhiên, gần 20 vạn quân Hàn Quốc ở miền Nam Việt Nam thì cũng vô cùng tàn ác, thường xuyên tàn sát cả làng trong nhiều khu vực ở miền Nam VN. Các cựu sĩ quan ta sau này cho biết rằng không phải Pháp, không phải Mỹ, càng không phải ngụy, mà chính quân Nhật và quân Hàn Quốc mới là khó chơi nhất trong lịch sử chiến đấu của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Hàn Quốc và Triều Tiên đều có những quân đội rất hiếu chiến, hiếu sát, và rất điêu luyện trong chiến đấu.
Về khả năng tự vệ trước sự tấn công của liên quân Mỹ, Hàn, Nhật và các nước: Phải hiểu rõ rằng tuy hiện nay quan hệ Triều Tiên - Trung Quốc không còn quá mặn nồng, thân thiết như trước đây, nhất là sau vụ Trung Quốc từ chối viện trợ cho Triều Tiên và cha con Kim Chính Nhật về nước sớm, hủy bỏ tiệc tiễn chân của Trung Quốc, sự ủng hộ quan điểm của Mỹ và phương Tây về vấn đề hạt nhân và khu vực của Trung Quốc mà Triều Tiên cho là bị phản bội, bị "đánh hội đồng" trên bàn đàm phán 6 bên v.v. Cũng như những khác biệt ngày càng sâu sắc gần đây giữa hai phía Triều Tiên - Trung Quốc. Nhưng một khi Triều Tiên bị tấn công thì có thể tin rằng chắc chắn Trung Quốc, vì lợi ích quốc gia và nhu cầu an ninh quốc phòng của mình, sẽ không làm một kẻ đứng ngoài dửng dưng khoanh tay đứng nhìn.
Vùng Mãn Châu rộng lớn và màu mỡ luôn là căn cứ hậu phương của Đảng Lao động Triều Tiên từ thời kháng Nhật đến nay. Các cộng đồng người Triều Tiên, người Hoa gốc Triều ở Mãn Châu rất đông và mạnh. Thế lực địa phương của họ rất mạnh nhờ sự chống lưng của chính phủ Triều Tiên. Có rất nhiều thanh niên từ Triều Tiên hiện đang lao động, công tác, hoặc du học tại đây. Có rất nhiều công ty của chính phủ Triều Tiên hoặc do tư nhân đứng tên làm chủ nhưng với sự đứng sau chống lưng và tài trợ của chính phủ Triều Tiên. Nhiều cơ sở liên doanh Trung Quốc - Triều Tiên cũng hoạt động kinh doanh tại đây. Đảng Lao động Triều Tiên cũng xem nơi này là nơi vươn ra ngoài trong lĩnh vực kinh doanh với các đối tác phi Hoa duệ khác. Nhiều tổ chức chính trị, văn hóa, kinh tế, hoặc cả quân sự trá hình của Triều Tiên đều ở đây.
Nhìn chung, Triều Tiên có cơ sở cực mạnh ở Mãn Châu. Kể từ khi phát xít Nhật cai trị tàn bạo, gây nhiều tội ác tại nơi này và được Hồng quân Liên Xô giải phóng họ khỏi tay phát xít, thì Mãn Châu có truyền thống cộng sản, thân Triều, thân cộng, thiên tả, chống Nhật, Mỹ và phương Tây. Các nhà cách mạng chống Nhật tiền bối của cộng sản Triều Tiên cũng đều hoạt động ở đây, trong đó có gia đình của Kim Nhật Thành. Chính quyền Triều Tiên cũng xây dựng hàng trăm cơ sở tại đây để làm một căn cứ vững chắc để nương náu tại đây khi cần. Những điều này cũng được chính quyền Bắc Kinh ngấm ngầm ủng hộ và hậu thuẫn, thậm chí hỗ trợ và giúp đỡ.
Cho nên, nếu bị tấn công vào và chiến bại thì họ có thể chuyển về đây và chắc chắn rằng nhà nước Trung Quốc sẽ giúp họ. Do đó, nếu muốn tiêu diệt chính thể Triều Tiên thì trước hết Hoa Kỳ phải thỏa hiệp được với Trung Quốc, tung ra những lợi ích béo bở và những "phần thưởng" hậu hĩnh và xứng đáng, đúng giá, để làm Trung Quốc phản bội và đâm sau lưng Triều Tiên. Tuy nhiên, vùng Đông Bắc Trung Hoa hiện nay là một trong những khu kinh tế quan trọng bậc nhất của Trung Quốc được đầu tư từ cả trong lẫn ngoài, nếu Triều Tiên bất ổn, hỗn loạn thì nó sẽ đón nhận làn sóng dân tỵ nạn tràn qua gây hậu quả nghiêm trọng. Cho nên dù Mỹ có bỏ ra cái gì cho Trung Hoa thì cũng khó thể bù đắp được những thiệt hại to lớn và lâu dài này. Cho nên khả năng chiến tranh thật ra rất thấp, các bên chỉ to tiếng ra oai với nhau để giành thế.
Trung Quốc không muốn chiến tranh gần nước mình như thế. Điều mà Trung Quốc ngán nhất hiện hay là một cuộc chiến tranh khốc liệt xảy ra ngay kế bên mình trong khi họ đang muốn tập trung phát triển kinh tế và quân sự. Trung Quốc cũng không đời nào muốn Mỹ vươn sát tới bên hông của mình, nhưng điều này sẽ thành sự thật nếu Bắc Triều Tiên thua, như vậy chiến tranh là rất mạo hiểm và phiêu lưu, phiêu lưu quân sự và phiêu lưu chính trị.
Trung Quốc cũng không bao giờ muốn một bán đảo Triều Tiên thống nhất. Họ muốn duy trì hiện trạng và lợi dụng Bắc Triều Tiên làm một vùng đệm an toàn, phòng tuyến an ninh. Họ muốn Bắc Triều Tiên tiếp tục dựa vào mình và làm tiền đồn ngăn chặn Mỹ - Nhật - Hàn và quyền lực Tây phương cho mình, ngăn cản không cho Mỹ tiến đến sát ranh giới Trung Quốc, ảnh hưởng nóng đến an ninh quốc gia, an ninh biên giới của họ.
Lưu ý Trung Quốc hiện đang là chủ nợ lớn nhất của Mỹ. Trung Quốc là công xưởng giá phải chăng cho tài phiệt Mỹ và là thị trường tiêu thụ lớn nhất của tư bản Mỹ. Quyền lợi, lợi ích của nhiều tập đoàn tư bản tài phiệt Mỹ gắn liền với Trung Quốc, ít nhất là trong thời điểm hiện nay. Vì vậy, hiện nay Hàn - Mỹ muốn đánh Triều Tiên thì phải chịu những trừng phạt kinh tế nặng nề từ phía Trung Quốc, lợi bất cập hại, lợi thì chưa thấy đâu, nhưng hại thì đã thấy trước rành rành ra đó, ít nhất là về kinh tế.
Mỹ thật ra rất nể, ngán, và khá e ngại trước Trung Quốc. Trước đây, Mỹ đã từng thỏa thuận hợp tác với PetroVietnam khai thác tài nguyên dầu mỏ trên Biển Đông, sau khi Trung Quốc phản đối thì Mỹ liền rút lại ngay ý định hợp tác với PetroVietnam. Nếu Mỹ không được Trung Quốc "ok" thì sẽ không có Chiến tranh Triều Tiên 2.
Hàn Quốc cũng không muốn xảy ra chiến tranh, năm 2010, khi Triều Tiên pháo kích vào đảo Diên Bình (Yeonpyeong) vài quả đạn pháo thôi mà đã gây cho chứng khoán Hàn Quốc vô cùng điêu đứng, tư bản Hàn Quốc, Mỹ và các nước phương Tây như muốn nghẹt thở, đứng tim. Chỉ cần dàn pháo biên giới của Triều Tiên cùng khai hỏa thì thủ đô Hán Thành của Hàn Quốc sẽ thành bình địa và bao công lao hồi phục khủng hoảng kinh tế sẽ thành "công cốc".
Triều Tiên không cần lo lắng thị trường chứng khoán sụp đổ. Họ chịu cực khổ đã quen. Họ không sợ gì hết. Họ không bị vướng víu bởi điều gì. Họ không còn lợi ích nào khác. Pháo binh Triều Tiên tập trung phần lớn ở biên giới, được đặt trong các hang động và hầm trú ẩn kiên cố, chỉ cần có hiệu lệnh là lập tức bắn ngay, Hàn - Mỹ chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra chưa kịp phản ứng thì thủ đô Seoul đã tan hoang.
Ước mơ thống nhất xa vời của dân tộc Triều Tiên
Trung Quốc ngày càng lớn mạnh thì cơ hội thống nhất bán đảo Triều Tiên ngày thêm xa vời. Triều Tiên với vũ khí hạt nhân trong tay sẽ được Trung Quốc tận dụng tối đa làm lá bài mặc cả với Mỹ. Mỹ cũng dùng Hàn Quốc làm một quân cờ trong khu vực Đông Bắc Á để kìm hãm "sự trỗi dậy của con rồng Trung Hoa".
Trong một nước tư bản thì lợi ích kinh tế là trên hết. Nếu thống nhất thì kinh tế và sàn chứng khoán Hàn Quốc sẽ bị ảnh hưởng rất xấu, và phải gánh những bê bối kinh tế, lạc hậu lỗi thời của Triều Tiên, gánh lấy những hậu quả của Triều Tiên, nuôi hàng triệu miệng ăn của Triều Tiên. Đã có tiền lệ như thế ở Đức sau khi Đông - Tây sát nhập, tình hình Nam - Bắc trên bán đảo Triều Tiên có khi sẽ còn khủng hoảng hơn, có khả năng sẽ lâm vào khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng lương thực, thậm chí khủng hoảng di cư, khủng hoảng giao thông.
Hàn Quốc muốn "money money money" hơn là muốn thống nhất. Hoặc giả "thống nhất" chỉ là chiêu bài đãi bôi để tranh thủ dư luận, tranh thủ lòng dân, lòe bịp mị dân, chứ thật sự họ có thật lòng thật dạ muốn thống nhất bán đảo hay không thì chỉ có họ biết trong lòng.
Ôn cố tri tân, xem lại lịch sử thì thấy dân tộc Triều Tiên từ xưa đã cho thấy bản tính bảo thủ, khó thay đổi của mình, vì vậy khi đã chia rẽ thì chia rẽ rất lâu, kéo dài hàng trăm, hàng ngàn năm. Sự chia rẽ, phân hóa, và văn hóa cát cứ ly khai của Triều Tiên, không ai phục ai, có lẽ còn sâu đậm hơn cả Trung Hoa.
Trong thời Tam quốc ở Trung Quốc, sau khi họ Tư Mã và nhà Tấn tiêu diệt Đông Ngô, thống nhất Trung thổ, thì thời kỳ Tam quốc đã hoàn toàn kết thúc, trở lại ngay với chế độ phong kiến tập quyền và hệ thống chỉ huy tập trung trung ương. Trong khi đó, thời Tam quốc (3 nước Cao Câu Ly, Bách Tế, Tân La) ở bán đảo Triều Tiên thì tồn tại hàng trăm năm, trải qua rất nhiều đời vua, và đến thời Tân La Thống nhất thì các bộ hạ, dư đảng cũ của Cao Câu Ly và Bách Tế vẫn liên tục nổi dậy, vùng lên mưu khôi phục triều cũ, lòng dân trong những vùng ảnh hưởng của họ vẫn lưu luyến triều cũ.
Tàn dư của Cao Câu Ly lại nổi dậy chống Tân La và trong họ lại chia thành 2 phe, phe Tiểu Cao Câu Ly bị phe Bột Hải tiêu diệt và phe nào cũng tự nhận mình là người kế tục Cao Câu Ly. Trong thời gian thống nhất lỏng lẻo, thì triều đình Tân La cũng quản lý quân đội theo kiểu gia tộc chứ không có hệ thống chỉ huy tập trung theo mệnh lệnh của nhà nước trung ương.
Khi Tân La suy thoái thì hậu duệ, dòng dõi của Cao Câu Ly và Bách Tế lại vùng dậy, bán đảo Triều Tiên lại rơi vào thời Hậu Tam quốc với 3 nước là Tân La, Hậu Cao Câu Ly (còn gọi là Thái Phong), và Hậu Bách Tế. Gần 1000 năm, gần 10 thế kỷ chia rẽ sâu sắc dân tộc thành 3 thế lực đối chọi và cứ nối tiếp nhau từ đời này sang đời khác.
Tại các nước lân cận, chia rẽ rồi cũng hết, còn ở Triều Tiên thì chia rẽ rồi lại chia rẽ tiếp với những lực lượng giống nhau hoặc là hậu duệ của nhau. Bất phục nhau và ân oán nối tiếp ân oán kéo dài không thôi. Dân Triều Tiên sống chủ yếu bằng cảm tính, cảm tình, và có lòng trung thành rất sâu sắc, và rất coi trọng yếu tố gia tộc.
Ôn cố tri tân thì những gì chúng ta thấy trên bán đảo Triều Tiên trong lịch sử hiện đại chỉ là sự lặp lại, tái diễn của lịch sử. Lịch sử hiện đại nối tiếp lịch sử truyền thống. Bán đảo Triều Tiên là một trong số các thuộc địa sau Thế chiến 2 và Chiến tranh lạnh bị chia cắt. Nhưng khác với thiên hạ, các nước khác một là thống nhất hẳn, hai là chia cắt luôn, còn họ thì lơ lửng, lưng chừng, thống nhất không ra thống nhất, chia cắt không ra chia cắt, chiến tranh không ra chiến tranh, hòa bình không ra hòa bình, vẫn chống báng nhau, đấu khẩu với nhau, nhưng không có một giải pháp nào cả. Rất giống thời Tam quốc hay thời Nam - Bắc triều đình trong lịch sử dân tộc Triều Tiên.
Ngoài sự phân chia về chính trị, địa lý, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia thì ngay trong nội bộ 1 quốc gia, 1 triều đình, 1 nhà nước phong kiến Triều Tiên luôn tiềm tàng, âm ỉ nhiều mâu thuẫn nội tại, với những cuộc tranh giành quyền lực sâu sắc và có khi đưa tới đổ máu, đẫm máu.
Một phần lớn trong đó là sự mâu thuẫn giữa các thế lực tôn giáo và lợi ích của các bên hữu quan. Suốt 1000 năm lịch sử, các chế độ phong kiến Triều Tiên luôn có những sự cạnh tranh khốc liệt giữa 2 phái; Phật giáo và Nho giáo, nhiều lúc đưa đến tình trạng ám sát bí mật, chém giết, đem quân bản bộ đánh nhau công khai, công khai tranh giành quyền hành trong triều nội.
Chỉ đến khi nhà Triều Tiên thay thế Cao Ly thì mới quyết tâm đưa Khổng - Nho lên thành tôn giáo chính, giáo lý chính, dùng Khổng giáo để trị quốc thì nạn phân tranh, phân quyền giữa Phật - Nho mới tạm chấm dứt, nhưng nó vẫn âm ỉ, tiềm tàng mâu thuẫn và khi có dịp là "xì hơi", bùng lên nội loạn.
Ngày nay, ở Bắc Triều Tiên thì không ai rõ ra sao, vì họ đóng cửa với thế giới bên ngoài. Nhưng ở Nam Triều Tiên xưa nay luôn có nhiều mâu thuẫn nội bộ. Xưa thì thanh trừng đẫm máu, tiêu diệt đối lập, nay thì trong Quốc hội thỉnh thoảng có những vụ ẩu đả tay chân, chửi bới thô tục vào nhau và hành hung lẫn nhau, có khi dùng cả những hung khí, đồ vật để ném vào nhau và đập nhau. Sự mâu thuẫn tôn giáo tưởng chừng đã hết với thời đại văn minh hiện đại ngày nay, nhưng không, trong xã hội Hàn Quốc vẫn đang có mâu thuẫn quyết liệt giữa phe Phật giáo và phe Tin Lành của chính phủ.
Từ xưa tới nay Phật giáo Triều Tiên có truyền thống can thiệp vào chính trị, vào việc nước. Ngày nay, chính phủ Hàn Quốc đa số là dân Tin Lành và giới Phật tử không thể chen chân vào chính trường, không có nhiều vai trò về chuyện quốc sự, do đó họ dễ nảy sinh bất mãn.
Tại Hàn Quốc từ trước tới nay đã có rất nhiều cuộc biểu tình quy mô do giới Phật giáo, Phật tử phát động để đòi hỏi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo, và chống lại "chính phủ Tin Lành", nhất là dưới thời tổng thống Lý Minh Bác. Rất nhiều vụ biểu tình báo chí chính thức của Hàn Quốc đã không đăng, người ta biết tin chủ yếu qua BBC Anh ngữ, blogs cá nhân, và một số phương tiện truyền thông của giới Phật giáo các nước.
Chính sách Ánh Dương
Chính sách Ánh Dương (Sunshine policy) là một chính sách ngoại giao tiến bộ của Hàn Quốc với sự hợp tác của CHDCND Triều Tiên. Chính sách này do cựu tổng thống Hàn Quốc Kim Đại Trung khởi xướng và tiến hành từ năm 1998. Chính sách này đã "phá băng" mối quan hệ băng giá giữa hai bên, nối lại chiếc cầu, khiến hai nước có quan hệ thân thiện, tốt đẹp, cởi mở với nhau hơn, tạo ra những đột phá quan hệ, những thắng lợi ngoại giao quan trọng.
Hai bên đã có cuộc tái ngộ lịch sử trong một cuộc hội ngộ lịch sử ở Bình Nhưỡng giữa Kim Chính Nhật và Kim Đại Trung vào tháng 6 năm 2000, cuộc gặp gỡ lịch sử sau gần 1 thế kỷ đóng cửa với nhau này đã tạo ra một số đột phá như: Một số hợp tác đầu tư, kinh doanh giữa 2 nhà nước và giữa CHDCND Triều Tiên với các công ty tư nhân lớn của Hàn Quốc. Khu công nghiệp chung Kaesŏng, nơi có các xí nghiệp nhà nước CHDCND Triều Tiên hợp tác kinh tế với các doanh nghiệp tư nhân Hàn Quốc, được xem là "Biểu tượng tình yêu giữa Bắc - Nam" (사랑의 표상). Những cuộc gặp mặt giữa các thân nhân hai miền Nam - Bắc v.v. Sau này các lãnh đạo cao cấp nhất của hai nước nhiều lần gặp nhau trao đổi, trong đó có cả Kim Chính Nhật, Kim Đại Trung, Lô Vũ Huyễn đã gặp gỡ thân thiện và hữu nghị với nhau ở Bình Nhưỡng.
Chính sách này đã phát huy hiệu quả rất tốt, giúp hai bên xích lại gần nhau hơn, quan hệ hai quốc gia nồng ấm hẳn lên, công cuộc phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên cũng có chuyển cơ tốt, cho đến khi Lý Minh Bác lên ngôi ở Hàn Quốc năm 2008, với chính sách và thái độ cứng rắn của mình, chính sách Ánh Dương đã bị vô hiệu hóa và không còn bao nhiêu tác dụng, làm cho tình hình khu vực lại căng thẳng và nóng lên.
Mục đích của chính sách Ánh Dương là để làm dịu đi thái độ ngoại giao và mềm dẻo hóa chính sách đối ngoại của CHDCND Triều Tiên đối với Hàn Quốc, bằng cách kêu gọi, động viên hai bên tăng cường đối thoại, "đối thoại không đối đầu", coi nhau như huynh đệ một nhà, người chung một nước, coi hai bên ngang nhau, bình đẳng, công bình với nhau, chứ không phải như kẻ thù v.v. và trợ giúp kinh tế (gồm viện trợ và đầu tư) đi kèm với viện trợ nhân đạo (lương thực) mà không đi kèm với điều kiện chính trị. Tách bạch vấn đề chính trị (kể cả vấn đề hạt nhân) và vấn đề kinh tế ra riêng, xem hai vấn đề này là độc lập với nhau.
Người Hàn Quốc đặt tên "Ánh Dương" cho chính sách này là dựa theo một thần thoại cổ xưa của dân tộc Cao Ly, với nội dung đại khái là Gió và Nắng thi xem ai làm cho người không mặc áo đó nữa, gió càng thổi mạnh thì người vì lạnh mà giữ chặt áo, nắng ấm áp nên người cởi áo để hưởng nắng ấm.
Chính sách Ánh Dương có 3 nguyên tắc chính:
1. Bất cứ thái độ khiêu khích, kích động, gây hấn quân sự nào của CHDCND Triều Tiên và cả Hàn Quốc đều không được dung thứ.
2. Hai bên sẽ cố gắng dùng biện pháp để hàn gắn, hòa giải, nối lại quan hệ, từng bước tiến tới thống nhất bán đảo Triều Tiên bằng biện pháp đàm phán hòa bình và công bằng cho hai bên, không bên nào được "nuốt chửng" bên nào, không bên nào được dùng bạo lực vũ trang quân sự để thâu tóm bên kia.
3. Hàn Quốc và cả CHDCND Triều Tiên sẽ liên tục tìm kiếm sự hợp tác, và giải quyết mọi khúc mắc, mọi vấn đề bằng giải pháp đàm phán và đối thoại ôn hòa.
Hàn Quốc trấn an Triều Tiên là họ không có ý đồ thâu tóm Triều Tiên vào lãnh thổ dưới quyền mình hay muốn lật đổ chế độ CHDCND Triều Tiên, mà trước tiên là hai bên phải tồn tại trong hòa bình, rồi từng bước tính chuyện thống nhất về sau.
Chính phủ Kim Đại Trung cũng đưa ra 2 vấn đề chính, bổ sung cho 3 nguyên tắc trên. Một là phân biệt rạch ròi, minh bạch và rõ ràng giữa chính trị và kinh tế. Điều này có nghĩa là Hàn Quốc sẽ nới lỏng việc cấm vận kinh tế, nới lỏng việc cấm đoán, hạn chế những doanh nghiệp tư nhân Hàn Quốc vào làm ăn ở Bắc Triều Tiên. Hai bên sẽ hợp tác về sản xuất tại những khu công nghiệp chung ở Triều Tiên và hợp tác du lịch ở một số thắng cảnh thiên nhiên đẹp ở Triều Tiên. Đồng thời gia tăng viện trợ nhân đạo không điều kiện.
Hai là đòi hỏi sự đáp lễ và "biết điều" từ phía Bình Nhưỡng, không được gây sự, khiêu chiến, khiêu khích quân sự, kích động chiến tranh, phải thay đổi chính sách thù nghịch, đối địch với Hàn Quốc, chấm dứt những đe dọa thô bạo, hai bên cần coi nhau như anh em một nhà, hai bên đối xử công bình với nhau, xem nhau là ngang hàng, thông hiểu, kiên nhẫn và nhường nhịn lẫn nhau nếu cần. Hết sức tránh xung đột, chiến tranh, bạo lực, dùng đối thoại và thái độ ôn hòa để giải quyết mâu thuẫn, khác biệt.
Viện trợ nhân đạo (lương thực) chủ yếu cho Triều Tiên không phải Mỹ, Trung Quốc, Nga, châu Âu mà chính là Hàn Quốc. Hiện nay Hàn Quốc vẫn viện trợ cho Triều Tiên rất nhiều thông qua Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (Food and Agriculture Organization of the United Nations - FAO). Chính phủ Hán Thành thời Lý Minh Bác thì nói rằng họ muốn viện trợ đến được với người dân, làm xúc tác để hòa hợp và thống nhất dưới chính sách Ánh Dương chứ không muốn dùng viện trợ đổi hòa bình. Tổng thống Lý Minh Bác muốn đồng nhất vấn đề chính trị và kinh tế, trái ngược quan điểm của tổng thống Kim Đại Trung trước đây.
Có những vấn đề của bán đảo Triều Tiên và khu vực nên được tách bạch từng vấn đề một. Theo quan điểm của Hàn Quốc và đa số các nước liên quan, kể cả Nga, Trung Quốc, thì quá trình thống nhất là vấn đề thuộc về quan hệ liên Triều, thuộc chính sách đối ngoại giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên. Tiến trình phi hạt nhân hóa và nỗ lực hòa bình, ổn định trong khu vực thì liên quan trực tiếp đến họ, nhưng hai anh lớn Mỹ - Trung mới đóng vai trò lớn nhất, ngoài ra Nhật và Nga cũng có vai trò không nhỏ. Theo quan điểm của CHDCND Triều Tiên thì vật cản của sự nghiệp thống nhất, trở ngại lớn nhất của sự nghiệp thống nhất chính là sự hiện diện của Mỹ, Mỹ không muốn hai nước hợp nhất, chỉ cần Mỹ rút lui khỏi Hàn Quốc thì bán đảo Triều Tiên mới có thể thống nhất.
Quan điểm của tổng thống Hàn Quốc Lý Minh Bác là: Thống nhất, hòa giải, và hòa bình lâu dài là mục tiêu của chính sách Ánh Dương chứ không phải là "Giữ quan hệ 2 nước nồng ấm bằng viện trợ vô điều kiện". Hàn Quốc không thể dùng tiếp tục dùng tiền thuế của dân để "nuôi hổ cắn mình", "dưỡng hổ di họa", để cho không những kẻ dùng tiền của mình nuôi quân đánh mình. Chúng tôi không thể lạm dụng tiền thuế dân tôi để nuôi bọn độc tài, gia đình trị, hiếu chiến, phong kiến v.v.
Cộng với việc nhiều người người dân Hàn xót tiền thuế của họ nên đã phản đối chính sách này, cho nên trong thời gian cầm quyền của Lý Minh Bác, chính sách này dần chỉ còn là "hữu danh vô thực", như cái xác vô hồn và dần đi vào dĩ vãng.
Năm 2006, sau khi Bắc Triều Tiên thử nghiệm hạt nhân và thử tên lửa, Hàn Quốc ngừng ngay viện trợ nhân đạo và đặt toàn quân vào tình trạng báo động. Khi đó dư luận Hàn Quốc và quốc tế đều cho rằng chính sách Ánh Dương không thể tiếp tục sau những hành động vi phạm những thỏa thuận cơ bản trong chính sách Ánh Dương. Tuy nhiên, tổng thống Lô Vũ Huyễn là một người ôn hòa, có cảm tình và có xu hướng thân Triều Tiên, nên vẫn cố gắng giữ lại một số yếu tố trong chính sách Ánh Dương, gồm đặc khu du lịch chung Kŭmgangsan (Kim Cương sơn) và đặc khu kinh tế chung Kaesong vẫn sẽ tiếp tục.
Tuy nhiên, sau khi ông Lý Minh Bác lên kế nhiệm, đã có thái độ quyết liệt, cứng ngắt, lên án CHDCND Triều Tiên và tuyên bố Triều Tiên muốn Hàn Quốc tiếp tục hợp tác trong khu công nghiệp Kaesong thì phải giải trừ vũ khí hạt nhân ngay lập tức. Bắc Triều Tiên điên tiết, tiếp tục "xù lông nhím" bắn thử một loạt tên lửa chiến lược để vừa thử nghiệm và huấn luyện, vừa thách thức và đe dọa, đồng thời "làm giá", nâng cao giá trị phe mình.
Năm 2009, sau khi Bình Nhưỡng thử nghiệm hạt nhân, quan hệ hai nước, hai miền đã đóng băng hoàn toàn. Tháng 11 năm 2010, Bộ Thống Nhất của chính phủ Hàn Quốc chính thức tuyên bố chính sách Ánh Dương đã thất bại, và chính thức đóng lại chính sách này.
Tháng 1 năm 2011, trước tình hình tổng thống bảo thủ Lý Minh Bác có thái độ cứng rắn, cực đoan với Triều Tiên, chính phủ CHDCND Triều Tiên, Mặt trận Dân chủ Thống nhất Tổ quốc, các đảng phái chính trị (Đảng Lao động Triều Tiên, Đảng Thanh hữu Thiên đạo, Đảng Dân chủ Xã hội Triều Tiên) và các tổ chức CHDCND Triều Tiên đã có một tuyên bố chung với các đảng chính trị và các tổ chức Nam Triều Tiên về những đề nghị quan trọng như sau:
1. Chúng tôi lịch sự đề nghị tiến hành đối thoại rộng rãi và thảo luận với các đảng chính trị và các tổ chức Nam Triều Tiên, bao gồm cả các cấp các chính quyền Nam Triều Tiên.
2. Chúng tôi sẵn sàng bất kỳ vào lúc nào và bất kỳ ở đâu gặp gỡ với những ai có mong muốn cùng chúng tôi cho dù quá khứ của nó như thế nào.
3. Chúng tôi mong muốn thảo luận và giải quyết trên cơ sở đối thoại và thảo luận tất cả các vấn đề liên quan đến những công việc quan trọng của dân tộc, trong đó có vấn đề giải trừ tình hình căng thẳng, đảm bảo hòa bình, hòa giải, đoàn kết và hợp tác.
4. Trong giai đoạn này vì mục đích xây dựng bầu không khí nhằm cải thiện các quan hệ liên Triều cúng tôi đề nghị cấm dứt các cuộc chiến dịch vu cáo chống đối lẫn nhau và không thực hiện các hành động có thể khiêu khích phía bên kia.
Tuy nhiên, chính quyền Lý Minh Bác đã thẳng thừng bác bỏ và từ chối mọi đàm phán, gặp gỡ, trao đổi với phía Bắc Triều Tiên.
Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa
Hai bên trên bán đảo Triều Tiên xưa nay không bên nào có chính nghĩa vượt trội phe kia và vì vậy không phe nào chiếm được lòng dân hoàn toàn, và hai bên giằng co mãi đến ngày hôm nay, bất phân thắng bại. Cũng chẳng có phe nào hội đủ các yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân hòa để giành chiến thắng tối hậu và thống nhất lãnh thổ.
Năm 1950, Triều Tiên có lợi thế "thiên thời" hơn khi thời ấy đang có không khí chiến tranh từ Thế chiến 2, thiên hạ vẫn quen với chiến sự, Hàn Quốc thì lúc đó yếu hơn rất nhiều từ kinh tế đến quân sự, chính trị rối ren bất ổn, các thế lực cực hữu trong chính quyền Lý Thừa Vãn xâu xé, thanh trừng, hãm hại lẫn nhau để tranh quyền. Lúc ấy thế đứng của phe XHCN đang rất mạnh và cũng ngang ngửa với phe TBCN. Chủ nghĩa thực dân cũ đã tan rã, chủ nghĩa đế quốc bị thoái trào.
Khi tiến quân tấn công Hàn Quốc, quân đội Triều Tiên được trang bị tốt với 13 vạn quân, vượt xa quân số Hàn Quốc, và hơn 200 xe tăng bao gồm nhiều xe tăng T-34 của Liên Xô, họ bắt đầu cuộc chiến với khoảng 180 máy bay, gồm có 40 máy bay tiêm kích YAK và 70 máy bay ném bom tấn công. Quân đội Lý Thừa Vãn yếu hơn và thiếu thốn rất nhiều trang bị nếu đem so với quân đội Kim Nhật Thành.
Quân đội của Lý Thừa Vãn chỉ có khoảng 6 vạn binh lính nhưng chỉ gồm các vũ khí hạng nhẹ, không có lấy 1 chiếc xe tăng và không có bao nhiêu xe thiết giáp và pháo binh. Hàn Quốc cũng không có máy bay tiêm kích, hoặc bất cứ vũ khí chống tăng nào. Do đó họ chỉ còn nước thúc thủ giương mắt ngó hàng loạt xe tăng Triều Tiên trùng trùng điệp điệp kéo vào thủ đô Hán Thành, mạnh ai nấy chạy. Quân Triều Tiên tiến như chẻ tre vào thâu tóm Hán Thành.
Cuộc tấn công được Kim Nhật Thành hoạch định tốt và đã đạt được những thành công chớp nhoáng và bất ngờ. Kaesŏng, Chuncheon, Uijeongbu và Ongjin nối đuôi nhau thất thủ, từng thành phố từng địa điểm, từng vòng đai phòng thủ đều sụp đổ theo kiểu Domino. Hàng loạt tướng tá cao cấp nhất của Lý Thừa Vãn ra đầu hàng tướng Kim Nhật Thành.
Hàn Quốc bị thua sút về quân số, khả năng chiến đấu, cũng như trang bị, lại thiếu lý tưởng chiến đấu và bất trung với chính phủ họ Lý, hầu hết đều tan hàng rã ngũ hoặc đào ngũ hàng loạt sang phía Triều Tiên, quay mũi súng chống lại họ Lý. Không quân Triều Tiên oanh tạc và đổ bộ chiếm đóng phi trường Kimpo gần Hán Thành. Sau đó nhanh chóng chiếm đóng thủ đô của Hàn Quốc mà không gặp sự phản kháng nào đáng kể. Các chiến dịch quân sự hoàn thành dễ dàng và gọn gàng.
Ngay cả khi quân Liên Hiệp Quốc và không quân Mỹ đổ bộ vào Phú Sơn, Quân đoàn 8 tác chiến cạnh Hàn Quốc và lập vành đai tử thủ, và oanh tạc các vòng vây của Triều Tiên thì ưu thế chiến cuộc vẫn thuộc về Kim Nhật Thành.
Lực lượng Đặc nhiệm Smith của Hoa Kỳ, một thành phần của Sư đoàn 24 Bộ binh của Mỹ đóng ở Nhật Bản lớ ngớ đến Osan và đã bị quân đội tinh nhuệ và quả cảm của Triều Tiên đập tan tành không còn manh giáp. Sư đoàn 24 của Mỹ bị tiêu diệt gần phân nửa quân lực, bị buộc phải rút quân về thành Taejeon cố thủ nhưng sau đó không lâu cũng bị quân Triều Tiên tiến đến đánh tan.
Nhưng sau đó, do một chút sơ hở và thiếu một hệ thống tiếp vận hoàn chỉnh, nên khi bị danh tướng Douglas MacArthur của Mỹ chơi đòn đánh úp vào hông, bất ngờ đột kích ban đêm vào vùng Incheon, vấn đề nhiên liệu, đạn dược, lương thảo đã từ khó khăn trở thành ác mộng đối với quân Triều Tiên vốn đang phải chiến đấu đường dài. Trung quân tan vỡ, hậu quân và tiền quân không thể phối hợp và tiếp ứng nhau. Tiền quân bị kẹt trong vùng ảnh hưởng của các lực lượng Liên Hiệp Quốc. Thế là Triều Tiên toàn quân tan vỡ, đại quân bị đánh bại ở khắp các trận tuyến, liên quân LHQ liên tục phản công quyết liệt và đánh đuổi quân Triều Tiên lúc ấy đang vừa đánh vừa lui.
Quân Triều Tiên rất thiện chiến, tinh nhuệ, tinh thần chiến đấu cao, nhưng đó chỉ được phát huy cao độ trong thời gian đầu chiến cuộc và khi họ đang trên đà thắng lợi. Đến khi thiếu lương, thiếu đạn, bị phản công, bị thua những trận sau đó thì họ bắt đầu xuống tinh thần, giống như một con nghiện đang hưng phấn đột nhiên thuốc hết hiệu lực. Họ bị hụt hẫng, bị sốc và xuống tinh thần ghê gớm, không còn lòng nào chiến đấu, tất cả đều sụp đổ, vừa đánh vừa chạy, từ đại thắng thành thảm bại trong nháy mắt.
Cái mất tinh thần mạnh nhất là khi đang thắng mà bỗng dưng ào ào thua. Như một đội bóng đang gác ba bốn trái nên chủ quan, tự tin rằng phen này ta ăn chắc, không ngờ hiệp 2 đội bạn phản công quyết liệt và bất ngờ giành lại ba bốn bàn thắng và gỡ hòa. Lúc ấy mới thật sự là không còn chút tinh thần nào chiến đấu. Trường hợp của Triều Tiên năm 1950 cũng là như thế, sau khi bị đột kích vào Incheon và thiếu hụt lương thực, đạn dược, nhiên liệu và bị tổn thất nặng nề, toàn quân bị sụp đổ theo kiểu Domino. Nhóm này thua kéo theo nhóm kia. Sư đoàn này thua làm sư đoàn kia thua theo.
Toàn bộ quân lực Triều Tiên đều tập trung vào Hàn Quốc những mong đánh cú dứt điểm, làm một canh bạc phiêu lưu quân sự. Nhưng ông ta đã thua canh bạc này, toàn quân tập trung tấn công Hàn Quốc nên ở nhà không còn bao nhiêu quân phòng thủ, đây cũng được xác định là chiến dịch tấn công nên không có bất cứ kế hoạch phòng thủ nào, số quân ít ỏi ở Triều Tiên cũng chỉ lo việc gìn giữ an ninh trật tự trị an và mong ngóng tin chiến trường phía Nam và lơ là việc phòng thủ. Do đó, khi quân Hoa Kỳ thừa thắng xông lên, vượt qua vĩ tuyến 38 đánh vào lãnh thổ Triều Tiên thì họ bị thua rất nhanh, không còn sức chiến đấu và cũng không còn lòng nào mà chống trả. Họ đã vắt cạn hết sức lực cho chiến trường phía Nam, và giờ đây họ đã kiệt lực.
Đó là nguyên nhân Triều Tiên thua trong cuộc chiến 1950-1953, dùng toàn lực tấn công, bị thua, đối thủ dùng toàn lực phản công thì cạn sức chiến đấu, thủ đô Bình Nhưỡng bị chiếm giữ, nếu quân Trung Quốc không tiến vào cứu nguy thì có thể ngày nay đã không tồn tại quốc gia CHDCND Triều Tiên.
Nhiều bạn hỏi thời đó quân đội Triều Tiên được các chuyên gia quân sự đánh giá là quân đội thiện chiến nhất thế giới, mà họ còn đại bại như vậy, thì ngày nay nếu Mỹ đánh vào như xưa thì làm sao họ chống nổi? Thật ra không hẳn là vậy, ngày nay, Triều Tiên tuy thực lực không còn được như xưa, nhưng họ tập trung phòng thủ, họ đã xây dựng một hệ thống phòng thủ chu đáo và chặt chẽ suốt hơn nửa thế kỷ qua. Chiến lược của họ ngày nay là pháo kích, tên lửa, chứ không còn thiên về dùng bộ binh đánh vào như xưa. Cho nên việc tấn công vào Triều Tiên ngày nay, nếu có, cũng chắc chắn sẽ không được thuận lợi suông sẻ như xưa, vì không có sự "thừa thắng xông lên", "chuyển bại thành thắng", và Bắc Triều Tiên trống vắng quân phòng thủ, mở cửa hớ hênh như trong Chiến tranh Triều Tiên năm xưa.
Thời đó Triều Tiên chỉ nắm ưu thế "thiên thời" hơn địch thủ một chút, nhưng không có ưu thế "địa lợi" và "nhân hòa" nên không thắng được, lại sơ hở, sai lầm về chiến lược nên đang thắng lớn thành ra thua to. Thời nay, cả hai phía bán đảo Triều Tiên đều không ai quá hơn ai về các yếu tố thiên - địa - nhân kể trên.
Về thiên thời, thời nay đang là thời đại hòa bình và cạnh tranh kinh tế, hơn là cạnh tranh chính trị và quân sự, không có cái thế, cái đà để phát động chiến tranh. Tuy nhiên, Hàn Quốc có lợi thế hơn do họ có dư luận quốc tế đồng tình và sự ủng hộ từ các thế lực lớn, họ có quan hệ ngoại giao tốt đẹp về cả chiều rộng và chiều sâu với hầu hết các nước lớn. Trong khi đó, Triều Tiên bị cô lập về mọi mặt, từ quân sự, kinh tế, đến ngoại giao.
Về địa lợi, Triều Tiên có lợi thế về mặt phòng thủ khi nơi đây có nhiều rừng núi chưa được khai phá mở mang đô thị hóa như bên Hàn Quốc, thuận lợi cho chiến tranh du kích một khi Hàn Quốc tiến công vào đây. Triều Tiên gần nửa thế kỷ hòa bình qua cũng đã nghiên cứu rất kỹ càng, tỉ mỉ để khai thác triệt để các yếu tố địa lợi cho hệ thống phòng thủ. Các vùng núi cao đều có các căn cứ quân sự, pháo binh, các dàn tên lửa, sẵn sàng nã pháo vào các mục tiêu, kể cả Seoul hay Tokyo, họ cũng tuyên bố tên lửa tầm xa của họ có thể đến được Hawaii và thậm chí Alaska của Mỹ.
Nhưng bất lợi về mặt phát triển kinh tế khi ở đây chỉ có khoảng 15% đất là có thể phục vụ cho canh tác. Tài nguyên thiên nhiên kém cỏi, nhất là về nông nghiệp, mặc dù gần đây người ta khám phá ra mỏ uranium ở Bắc Triều Tiên. Thiên tai, mất mùa, bão lụt liên tục. Về điểm này, Triều Tiên không bằng Hàn Quốc. Nhưng yếu tố địa lợi của Hàn Quốc hầu như chỉ phục vụ cho kinh tế, không phục vụ nhiều cho phòng thủ.
Về nhân hòa, cũng bên tám lạng, người nửa cân, không bên nào có ưu thế vượt trội bên nào. Hai bên đều tuyên truyền tốt, hai bên đều kiểm soát chặt chẽ các thông tin và ngăn chặn các thông tin bất lợi cho chính phủ. Triều Tiên chỉ có Intranet, không có Internet đầy đủ. Hàn Quốc thì mở blog phải đăng ký bằng thẻ căn cước, khai báo lý lịch, tên họ, địa chỉ, rất nhiều website bị chặn, các sách báo về CNXH, thân Cộng, thân Kim, thiên tả, hay chỉ trích chính phủ, nói lên những tiêu cực của CNTB đều bị cấm ngặt và đặt ngoài vòng luật pháp.
Hàn Quốc mở cửa hơn, có danh nghĩa "gìn giữ hòa bình", lo cho đời sống kinh tế của nhân dân tốt hơn Triều Tiên. Tuy nhiên đời sống nhân dân Triều Tiên ở các thành phố lớn, nhất là "tủ kính" Bình Nhưỡng, vốn quy tụ toàn là những gia đình có công với chế độ, trung thành tuyệt đối với chế độ, và ưu tú nhất Triều Tiên thì đời sống không đến nỗi nào.
Theo một số người thân Cộng phương Tây đã từng du hành, làm việc, công tác tại Triều Tiên cho biết nước này hiếm có tội phạm, không có tội phạm lớn có tổ chức, xã hội cực kỳ ổn định và an toàn, nhiều nhà ở thôn quê tối ngủ không đóng cửa (cũng có thể giải thích rằng họ nghèo quá còn gì mà sợ mất).
Không có những tệ nạn hút chích xì ke, băng đảng, xã hội đen, Mafia, giang hồ, dân anh chị, hiếp dâm như ở các nước khác. Không có nhiều người hút thuốc, rượu chè, nhậu nhẹt. Hầu như không có ăn chơi buổi tối, khi đêm đến là đa số dân chúng đều tắt đèn đi ngủ để giữ gìn sức khỏe và tiết kiệm điện lực (không muốn tiết kiệm thì cũng bị cắt điện, không có cách nào khác), chính vì vậy mà về đêm, vệ tinh chụp hình bán đảo Triều Tiên thấy các nước chung quanh thì sáng rực đèn, trong khi Triều Tiên lại chìm trong bóng tối.
Nghèo nàn, lạc hậu, đời sống khó khăn, bị khủng hoảng lương thực v.v. nhưng bù lại giáo dục (cả đại học và các trung tâm dạy nghề, dạy kỹ thuật) và y tế đều miễn phí. Theo một quan chức Tây Ban Nha hiện đang công tác ở Triều Tiên trả lời đài ABC Mỹ thì ở Triều Tiên nghèo đói là có, nhưng không có ai thất nghiệp, ai cũng được phân phối việc làm, không có dân vô gia cư và không có ăn mày. Môi trường không bị ô nhiễm. Hiếm có người thất học, mù chữ. Hiếm tệ nạn xã hội, tệ nạn văn hóa, tai nạn giao thông. Quy hoạch cực tốt, đặc biệt ở thủ đô Bình Nhưỡng.
Điện khí hóa toàn quốc, ban ngày không có vùng nào mà không có điện, kể cả những vùng hẻo lánh. Mặc dù nghèo, nhưng giáo dục đại học được đầu tư cẩn thận, chu đáo, trường đại học Kim Nhật Thành ở Bình Nhưỡng hội đủ tiêu chuẩn quốc tế và trong các phòng học, mỗi bàn học đều có máy vi tính và gần đây đã được trang bị laptop. Hệ thống giáo dục ngoại ngữ, nhất là Anh ngữ được đánh giá là không thua kém bất kỳ hệ thống giáo dục nào trên thế giới. Có đầy đủ báo chí, sách vở tiếng Anh dành cho du khách, đa số các nhân viên nhà nước, các đảng viên đều nói được tiếng Anh cơ bản. Họ nghiên cứu sâu sắc và kỹ càng mọi mặt về Hoa Kỳ, từ trong ra ngoài, từ A đến Z.
Nhiều người nghèo Triều Tiên trốn sang Hàn Quốc, định cư một thời gian thì đều không thích ứng nổi với cuộc sống ở Hàn Quốc, không hội nhập nổi vào xã hội Hàn Quốc, không xin được việc làm, và có rất nhiều người tự tử. Tỷ lệ người tự tử, thất nghiệp, ăn xin, bạo hành trong cộng đồng Bắc Triều Tiên ở Hàn Quốc cao hơn rất nhiều so với người Hàn Quốc và các cộng đồng dân tộc khác ở Hàn Quốc.
Theo báo điện tử Chosun Ilbo ở Hàn Quốc, có khoảng 1500 học sinh người tỵ nạn Bắc Triều Tiên ở Hàn Quốc, đa số họ khó thích nghi, hội nhập và bị phân biệt, kỳ thị, khinh khi, coi thường, có nhiều trường hợp còn bị ngược đãi, hành hung, đánh hội đồng. Nguyên nhân thì chủ yếu từ sự kỳ thị Bắc - Nam do văn hóa đã có nhiều khác biệt sau gần 1 thế kỷ xa cách nhau, cô lập với nhau, cả giọng nói, tiếng nói, và cách dùng từ ngữ, thậm chí cả cách viết cũng có nhiều khác biệt. Những người tỵ nạn này cũng chịu sự khinh bỉ, chửi mắng, xa lánh, tẩy chay, gọi họ là "phản bội", "hèn hạ", "nhục nhã" v.v. từ một bộ phận người dân có cảm tình với CHDCND Triều Tiên, chán ngán chính phủ Hàn Quốc, căm ghét sự dính líu của Hoa Kỳ và sự có mặt của quân đội Mỹ ở Hàn Quốc.
Những di dân Triều Tiên trước khi hòa nhập với cuộc sống mới đều trước hết phải trải qua những lớp học dài ngày để tẩy não và nhồi sọ. Nếu Hàn Quốc có chính nghĩa rõ ràng và được nhân dân ủng hộ hơn thì sao còn mở những lớp học đó để tẩy não, nhồi sọ dân nhập cư Triều Tiên làm gì? Nếu họ thật sự chán ghét chế độ Kim Chính Nhật, nếu họ thật sự ủng hộ Hàn Quốc hơn, nếu Hàn Quốc quả thật là "chính nghĩa", là "sự thật", là "ánh sáng" thì còn phải làm chuyện đó hay sao, khi người ta thoát khỏi "địa ngục Bắc Hàn" và tới được "bến bờ tự do" thì họ đương nhiên là phải sung sướng một cách tự nhiên, tự nguyện, và ủng hộ Hàn Quốc, quay sang chửi bới vạch trần, phanh phui Triều Tiên chứ? Mở lớp học nhồi sọ làm gì nữa? Thế thì có thật sự là Hàn Quốc được lòng dân hơn, và dân tình chống đối chính quyền ở Triều Tiên hay không?
Một phần do chính sách bưng bít nhiều thông tin của Triều Tiên vô hình trung tạo cơ hội cho Hàn Quốc tha hồ bịa đặt, tô vẽ, thổi phồng. Nhiều người tỵ nạn Triều Tiên sau khi đến được Hàn Quốc trả lời phỏng vấn cho biết sau khi tới Hàn Quốc họ mới "nhận ra" và "biết được" thông tin này thông tin kia ở Triều Tiên, mà thật ra chỉ là những thông tin chưa được kiểm chứng và trong đó có nhiều thông tin không hợp lý và không chính xác, đậm tính giật gân. Ví dụ thông tin cho rằng Bắc Triều Tiên bưng bít lai lịch Công giáo của gia đình Kim Nhật Thành (thật ra ông nội và cha của Kim Nhật Thành cải trang thành mục sư Tin Lành để che tai mắt mật thám Nhật và cũng để tiện bề ra vào nhà thờ hoạt động hội kín, lập các cơ sở bí mật trong nhà thờ), thông tin Kim Chính Nhật có nhiều thế thân và người đi gặp tổng thống Hàn Quốc Kim Đại Trung và Lô Vũ Huyễn chỉ là thế thân của họ Kim (làm sao anh biết và từ đâu anh biết việc này?), Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật quan hệ tình dục bừa bãi với phụ nữ xong giết họ bịt miệng, Kim Jong-nam lôi nữ sinh lên phòng đại học để hãm hiếp, Kim Nhật Thành tắm chung với tập thể cô gái trẻ để lấy sinh khí nhằm được trường sinh bất lão v.v. đều là những thông tin ai nghe cũng thấy khó tin, chưa có nguồn khả tín nào ủng hộ, đậm tính lá cải, nhưng dân tỵ nạn Bắc Triều Tiên thì tin răm rắp và cho rằng vì bị bưng bít nên họ mới không biết được những tin đó, họ cảm ơn các cơ quan chiến tranh tâm lý của Hàn Quốc đã giúp họ "nhận ra sự thật", "minh bạch sự thật bị che giấu lâu nay". Họ chưa bao giờ tự đặt câu hỏi vì sao họ ở ngay trong Bắc Triều Tiên mà họ còn không biết mà những người ở ngoài lại có thể biết.
Hàn Quốc đã mở rất nhiều chiến dịch thông tin, chiến dịch tuyên truyền, lập ra nhiều trang web bôi đen hình ảnh Triều Tiên. Họ khai thác, tận dụng và lợi dụng vũ khí người tỵ nạn và mượn lời họ kể tội, bôi nhọ Triều Tiên, trong đó có những câu chuyện không phải từ người tỵ nạn mà do ban biên tập hư cấu dựa trên vài sự kiện. Họ "xã hội hóa", "dân sự hóa" quốc sách tuyên truyền chống Triều Tiên, lập ra rất nhiều hội đoàn, tổ chức, câu lạc bộ, nhóm nghiên cứu v.v. và lôi kéo cả những thiếu niên, thanh niên vào cuộc, khai thác và lợi dụng góc độ nhân đạo của vấn đề để phục vụ cho mục đích tuyên truyền chiến tranh tâm lý. Không những "quốc nội hóa" các chiến dịch thông tin chống Triều Tiên, dưới danh nghĩa "giúp đỡ người tỵ nạn", "chung tay với nhân dân Bắc Triều Tiên", nhờ ưu thế của một nền kinh tế phát triển, họ còn có tham vọng muốn "quốc tế hóa", họ bỏ tiền ra thuê nhiều người nước ngoài dịch các website và sách báo chống Triều Tiên ra nhiều thứ tiếng, đặc biệt là tiếng Anh, Trung, Pháp, Tây Ban Nha. Và cũng hợp tác với Hoa Kỳ để chuyển ngữ một cách chuyên nghiệp từ tiếng Hàn sang tiếng Anh.
Họ cũng dùng một "chiêu" mà trước đây Mỹ hay dùng (và hiện vẫn đang áp dụng với người tỵ nạn Cuba) đó là dụ dỗ hợp tác xuất bản sách, những ai viết hồi ức, hồi ký, về những "trải nghiệm kinh hoàng" của họ ở "địa ngục trần gian" kia, nơi họ vừa thoát khỏi, thì sẽ được thưởng công, trả công hậu hĩnh qua hình thức "tiền nhuận bút". Đối với những người kém văn hóa, thì sẽ có chuyên viên giúp đỡ, kềm kẹp, gợi ý, biên tập, chỉnh sửa. Kém hơn nữa thì sẽ có những nhà văn, nhà biên tập chuyên nghiệp hợp tác viết, hoặc viết hoàn toàn dựa trên lời kể của nhân vật tỵ nạn, rồi khi xuất bản sẽ để tên tác giả là nhân vật tỵ nạn, hoặc đồng tác giả có tên của nhân vật tỵ nạn, trong khi thực tế người này không phải là người viết.
Những sách, truyện ký, hồi ký, hồi ức về đất nước bí ẩn Triều Tiên luôn rất hấp dẫn và khơi gợi sự tò mò nơi người đọc, vì thế những cuốn sách này luôn bán chạy. Thế là hai bên cùng có lợi, với "tác giả" thì được số tiền "nhuận bút" khổng lồ (nhiều nhân vật tỵ nạn ở Hàn Quốc không nghề nghiệp, khó thích nghi, ít tiền bạc, túng thiếu, nghèo khổ, khi được "ai đó" đến tiếp cận với gợi ý thì họ dễ nhận lời), với chính phủ Hàn Quốc thì những thông tin tuyên truyền được truyền đi một cách gián tiếp và có sức lôi cuốn và thuyết phục cao khắp trong nước và lan ra cả quốc tế.
Triều Tiên và những người ủng hộ họ thích khai thác quá khứ chống Nhật để làm cơ sở chính nghĩa, chính danh cho Triều Tiên. Nhưng sự thật là họ đánh không thắng Nhật ngoài một vài trận nhỏ, chiếm được vài đồn lính. Cuộc chiến giữa quân kháng chiến Kim Nhật Thành và Nhật lại không diễn ra nhiều trên bán đảo Triều Tiên. Họ chủ yếu chống Nhật ở Mãn Châu, Trung Quốc, và các vùng biên giới Trung - Triều, gần sông Áp Lục. Như vậy cuộc chiến chống quân phiệt Nhật của lực lượng Kim Nhật Thành không mang tính toàn dân, không phải là cuộc chiến tranh nhân dân. Họ không hề đánh bại đế quốc Nhật, không phải là lực lượng chiến thắng Nhật, không phải là lực lượng đã giải phóng bán đảo Triều Tiên khỏi tay Nhật. Chẳng qua phe Đồng minh đánh bại phe Trục, Nhật đầu hàng nên họ trở thành một trong những lực lượng bản xứ được "ăn theo". Sau khi quân Liên Xô và Hoa Kỳ giải phóng bán đảo thì đảo này vẫn là một vùng đất vô chủ, chưa ai thành lập nhà nước và quốc gia.
Hàn Quốc có một trong những ngân sách quốc phòng cao nhất thế giới và là một trong tiềm lực quân sự mạnh nhất thế giới. Với một nền công nghiệp quốc phòng hùng mạnh và giàu kinh nghiệm, từ năm 1990 khi bắt đầu tập trung chế tạo vũ khí hiện đại thì họ đã có hơn 70% vũ khí, đạn dược, quân phục tự làm, ngày nay đã có hơn 80% vũ khí hạng nặng do họ tự chế. Quân số tuy không đông bằng Triều Tiên, nhưng vô cùng thiện chiến, hiếu chiến và hung hăng, có thể thấy mức độ hiếu thắng, say máu, khát máu, tàn độc, vô nhân đạo của quân Hàn Quốc khi họ tham chiến giúp Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam.
Về kinh tế, Hàn Quốc nhờ Mỹ và phương Tây giúp đỡ, đã có một nền kinh tế lớn thứ 3 châu Á và top 10 thế giới. Tuy nhiên về chính trị thì họ vẫn còn lệ thuộc, chịu lép trước Mỹ, nhường nhịn Mỹ quá đáng và thường đấu đá nội bộ, tham nhũng tiêu cực. Chính trị và xã hội không được ổn định, an ninh như Triều Tiên (tuy nhiên điều này cũng chưa chắc vì Triều Tiên không cho thế giới bên ngoài thấy nhiều về họ). Xã hội Hàn Quốc hay xảy ra những cuộc biểu tình chống Lý, chống Tin Lành, chống sự đóng quân của Mỹ, chống tổng thống, đốt xe, và bị cảnh sát dùng gậy gộc, hơi cay đàn áp. Có những cuộc biểu tình, tuần hành đã biến thành bạo động và có đổ máu.
Về phía Triều Tiên, với tình hình hiện nay, với thực lực hiện thời, họ không đủ sức để đánh sang Hàn Quốc thống nhất quốc gia, và trên các phương tiện truyền thông thì họ cũng không tuyên bố gì về việc sẽ đánh qua Hàn Quốc bằng quân đội. Nhưng họ tuyên bố khẳng định rằng nếu Hàn Quốc và đồng minh mà dám đụng đến Triều Tiên thì Hàn Quốc và Nhật Bản sẽ thành tro bụi, một số thành phố của 2 bang Mỹ là Alaska và Hawaii cũng sẽ thành đống gạch vụn. Như vậy có vẻ họ không có ý định đánh Hàn Quốc bằng quân lực, nhưng nếu cần thì họ sẵn sàng đánh vào Hàn Quốc bằng đại pháo, tên lửa, biến Hán Thành thành biển lửa, san bằng các vùng phụ cận thành bình địa bằng vũ khí chiến lược của mình.
Triều Tiên với rất nhiều dàn tên lửa chất lượng cao và không ai biết có gắn đầu đạn hạt nhân hay không. Mật vụ Triều Tiên hoạt động tốt, xã hội thắt chặt, khắt khe, kỷ luật quá cũng khiến CIA bó tay thúc thủ không thể dò ra được là thật ra Bình Nhưỡng có sở hữu vũ khí hạt nhân hay không, đã làm ra được vũ khí hạt nhân hay chưa, và nếu có thì bao nhiêu?... Đây là những vũ khí chiến lược rất nguy hiểm của Triều Tiên mà Hàn Quốc không dám đụng tới, phải cân nhắc thật kỹ nếu muốn khai chiến với Triều Tiên.
Suốt hơn 50 năm qua, tận dụng thời gian hòa bình tạm bợ này, Triều Tiên đã xây dựng được một hệ thống phòng thủ vô cùng cẩn mật và vững chắc. Triều Tiên có nhiều đường hầm chống không và các khu mua bán, khu vực sinh hoạt dưới lòng đất, sẵn sàng đối phó lâu dài với không lực đối phương.
Đường phố thì có ít người, dân chúng được tuyên truyền giáo dục rất kỹ và được huấn luyện "kế thanh dã" (tiêu thổ, vườn không nhà trống). Hàn - Mỹ khó mà "dùng chiến tranh nuôi chiến tranh" ở đây. Chỉ có khoảng 15% đất ở Triều Tiên là có thể canh tác, tài nguyên thiên nhiên rất kém, nếu đánh Triều Tiên thì Hàn Quốc không có xơ múi, thu lợi gì được nhiều ở đây mà còn phải vận chuyển nhân lực, vật lực vào Triều Tiên để lo việc bình định, thậm chí phải "nuôi" hộ mấy triệu dân Triều Tiên, lo cho mấy mươi triệu miệng ăn ở Triều Tiên, vốn gần 1 thế kỷ nay đã quen với cơ chế quan liêu bao cấp và kinh tế tập trung, chỉ huy, mệnh lệnh. Kinh tế của Hàn, Nhật, Mỹ vốn vẫn chưa thoát hẳn khủng hoảng, lại sẽ càng khủng hoảng sâu sắc hơn.
Triều Tiên có nhiều tảng đá ngàn cân đặt sẵn trên các gò cao kế bên các lề đường, khi có chiến tranh sẽ dùng máy móc đẩy những tảng đá đó rơi xuống giữa đường, chung quanh lại toàn rừng núi, xe tăng liên quân không có đường chạy.
Quân địch tiến vào Bình Nhưỡng thì sẽ phải chinh phục từng căn nhà một. Thủ đô Bình Nhưỡng là "tủ kính" của chế độ, là căn cứ vững chãi của chế độ, với những người tuyệt đối trung thành với gia đình họ Kim, những người ưu tú đều di cư đến đây hoặc đã ở sẵn nơi đây. Đời sống Bình Nhưỡng cũng tạm ổn nên người dân nơi đây giữ vững niềm tin và sự trung thành đối với chính quyền. Đa số dân Bình Nhưỡng đều là đảng viên hoặc có người thân là đảng viên, quân nhân.
Mỗi căn nhà ở Bình Nhưỡng và các vùng phụ cận, và một số thành phố lớn đều là một ổ tự vệ phản kháng hữu hiệu. Mỗi ngôi nhà đều có trang bị những công cụ quân sự cơ bản, có đường hầm tránh bom, chỉ cần chính phủ phát súng cho dân thì mỗi người dân sẽ thành một người chiến sĩ, mỗi căn nhà sẽ thành một thành trì chống địch. Mỗi nhà đều có hầm trú ẩn. Một số nhà có hầm chữ A, trước đây Triều Tiên đã tặng phát minh "hầm chữ A" này cho Việt Nam, mô hình hầm chữ A này đã giúp quân dân ta rất nhiều trong kháng chiến chống Pháp - Mỹ.
Do được dạy dỗ tinh thần hận Mỹ, thù Mỹ, bài Mỹ lâu ngày. Hầu như toàn dân già trẻ lớn bé Triều Tiên đều căm thù Mỹ thấu xương tủy. Trẻ con mẫu giáo nào ở Triều Tiên cũng thuộc lòng những bài hát trẻ em có nội dung chống Mỹ, giết Mỹ. Ai cũng biết trước 1953 Mỹ đã bom Triều Tiên không còn một căn nhà như thế nào, đã thảm sát hãm hiếp, gây ra bao nhiêu tội ác với nhân dân Triều Tiên như thế nào, và đã cấm vận tra tấn hành hạ Triều Tiên đến tận ngày nay như thế nào, đã chôn sống tập thể các thôn dân như thế nào, Lý Thừa Vãn và Phác Chung Hy tàn ác thế nào, Lý tổng thống đã bắt dân Triều Tiên đi lính Hàn Quốc như thế nào. Đến nỗi họa sĩ nổi tiếng Picasso phải vẽ bức tranh "Massacre in Korea", một tác phẩm nổi tiếng của ông nói về sự thảm sát ở Triều Tiên khi quân Mỹ và Liên Hiệp Quốc kéo sang đó.
Như vậy, nếu Hàn Quốc tự mình kéo qua đánh Triều Tiên thì không sao. Nhưng nếu có mặt lính Mỹ thì sẽ phải đối đầu với một đối thủ có khi còn cuồng tín, cuồng chiến, hung hãn, cảm tử hơn cả quân phát xít, quốc xã ngày xưa hay các lực lượng Hồi giáo cực đoan Trung Đông thường ôm bom cảm tử, tử vì đạo ngày nay.
Quân đội Triều Tiên là một quân đội thiện chiến, tinh nhuệ, bản lĩnh chiến đấu rất cao, kỷ luật sắt, tinh thần tư tưởng vững mạnh, tư tưởng chính trị vững vàng, tinh thần sẵn sàng quyết tử quyết chiến, kỹ năng tác chiến cá nhân và tập thể rất cao và ăn ý, được trang bị vũ khí cá nhân khá tốt.
Trong thời Chiến tranh Lạnh, quân đội Triều Tiên được báo Times và BBC Luân Đôn đánh giá là thiện chiến nhất, xếp hạng trước cả Hồng quân Liên Xô và quân đội Hoa Kỳ. Quân đội Triều Tiên có chương trình huấn luyện như khổ sai, dễ chết nhất, nguy hiểm nhất, và thuộc loại kinh hoàng nhất trong các hệ thống quân sự thế giới. Mỗi chiến sĩ Triều Tiên đều là những chiến binh thép và khá cuồng tín nhưng lại rất kỷ luật.
Quân đội Triều Tiên được như vậy là nhờ truyền thống chống quân Quan Đông rất tàn ác và thiện chiến của phát xít Nhật. Khi đã quen thuộc chống nhau với quân chủ lực Quan Đông mỗi ngày thì không còn biết sợ đội quân nào khác. Một phần lớn quân nhân Triều Tiên thời đó cũng từng có kinh nghiệm chiến đấu trong Hồng quân Liên Xô, đội quân thiện chiến nhất thế giới thời ấy, sự thiện chiến tinh nhuệ của Hồng quân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tác chiến của quân đội Triều Tiên. Có nhiều tướng lĩnh, sĩ quan của Triều Tiên cũng từng phục vụ trong hàng ngũ Hồng quân, mà chủ tịch Kim Nhật Thành là một trong số đó.
Quân đội Triều Tiên vẫn giữ nguyên các chương trình huấn luyện thời chiến, tương tự như thời chống Nhật, chống phát xít đó. Và vẫn giữ các bài huấn luyện khổ sai đó. Những bài huấn luyện như "Đi dây tử thần" rùng rợn trong chương trình của Hoa Kỳ mà tân binh nào của Mỹ cũng ngán sợ, thật ra chỉ là một bài tập cơ bản của Triều Tiên.
Tại Triều Tiên, cứ khoảng 10 người là có 1 chiến binh chính quy. Đó là chưa tính quân dự phòng và các lực lượng bán quân sự. Quân đội chiếm 10% tổng dân số, đó là tỷ lệ cao nhất thế giới. Mặc dù ngân sách nghèo, diện tích nhỏ, dân số ít, nhưng vẫn luôn là một trong những quốc gia có lực lượng quân sự đông nhất thế giới, một trong những ngân sách quốc phòng lớn nhất hành tinh, tỷ lệ ngân sách giành cho quốc phòng cũng cao nhất thế giới.
Các nước khác chỉ tập trung lo cho 3 quân chủng là Hải - Lục - Không quân, thì Triều Tiên ngoài 3 quân chủng đó họ còn xem trọng lực lượng An ninh ngang bằng với 3 quân chủng kia. Đó là chưa kể các lực lượng cảnh sát, cảnh sát chìm, tình báo, đặc tình, cộng tác viên của chính phủ v.v. Giữ vững tuyệt đối an ninh trong quân đội, trong hệ thống chính trị và ngoài xã hội. Cứ cách 10 người là có 4 đảng viên Đảng Lao Động Triều Tiên. Triều Tiên không dưới 40% dân số là đảng viên cộng sản, tỷ lệ cũng cao nhất trong các nước XHCN từ xưa đến nay. Hầu như mỗi nhà, mỗi gia đình là có ít nhất 1 đảng viên. Đâu đâu cũng có chi bộ của Đảng Lao động, kể cả trong chùa chiền hay nhà thờ.
Triều Tiên có nền công nghiệp quốc phòng khá tốt, vũ khí thuộc loại tốt. Công nghệ tên lửa, đạn đạo rất cao. Tên lửa là vũ khí chiến lược của Triều Tiên nên họ rất chú trọng và đầu tư rất lớn vào đây. Tên lửa tầm ngắn của họ dành cho Hàn Quốc và Nhật Bản, theo các nhà quân sự phương Tây tính toán thì chỉ cần khoảng 30 giây là đến được Seoul, và chỉ cần khoảng 2, 3 phút là đến được Tokyo, họ có rất nhiều pháo đài đặt khắp nơi trên các vùng núi cao ở Triều Tiên. Những hệ thống tên lửa phòng ngự mà Hàn, Nhật tự chế hoặc được Mỹ viện trợ / bán cho đều không chắc có thể bắn chặn hóa giải được những tên lửa từ Triều Tiên, cùng lắm thì cả 3 "đồng quy ư tận", có thể kéo theo cả vài trăm căn nhà ở Hawaii và Alaska của Mỹ đi chung.
Tên lửa tầm xa của Triều Tiên thì để dành cho Mỹ, nhắm vào tiểu bang Alaska và Hawaii mà Triều Tiên cho rằng họ có thể vươn tới. Tuy khó thể biến Hawaii và Alaska thành gạch vụn như Seoul và Tokyo nhưng cũng sẽ gây thiệt hại nặng nề cho Mỹ, gây tổn thất nặng cho kinh tế Mỹ, và như một cái bạt tai tóe lửa vào mặt mũi, gây tổn thương danh dự, tự ái của đại cường quốc Hoa Kỳ. Nếu chuyện đó xảy ra, thì đó sẽ là lần đầu tiên trong suốt 200 năm lập quốc nước Mỹ bị tấn công vào bên trong nội địa của mình, điều mà cả Đức Quốc Xã, phát xít Ý, quân phiệt Nhật, Hồng quân Liên Xô còn chưa dám. Quân đội Nhật hung hăng và thiện chiến như vậy mà cũng chỉ đánh vào Trân Châu Cảng chứ chưa dám bén mảng đến lục địa.
Triều Tiên đã xây dựng rất nhiều khu sinh hoạt dưới lòng đất, sẵn sàng cho một cuộc đối đầu trực diện, toàn diện, và lâu dài với bất kỳ thế lực nào, đặc biệt là với không lực Hàn hoặc Mỹ. CIA Mỹ cũng không có đường thể hiện tài năng của mình ở quốc gia khép kín này như họ đã làm được ở các nước khác. Một nhà khoa học quân sự Mỹ, giáo sư ở trường võ bị nổi tiếng West Point cho rằng "Triều Tiên là quốc gia duy nhất trên thế giới ngày nay có khả năng đối đầu toàn diện trong một cuộc chiến tranh toàn diện, tổng lực với chúng tôi". Triều Tiên sẽ không dùng chiến tranh du kích, mà họ sẽ dùng trận địa chiến chọi thẳng theo học thuyết quân sự Stalin.
Liên quân mà tiến vào Triều Tiên thì sẽ sa lầy rất sâu. Và cho dù có chiếm được Bình Nhưỡng và các thành thị, thì họ cũng sẽ không bao giờ bình định được Triều Tiên. Nguy hiểm nhất là đâu đâu cũng có đảng viên Đảng Lao động tổ chức chiến đấu. Triều Tiên còn một hậu phương lớn ở Trung Quốc, mà cụ thể là vùng Mãn Châu trù phú, phát triển, có tài nguyên tốt, có cơ sở tốt, là nơi lý tưởng để thành lập cơ sở chiến đấu lâu dài. Và có thể tin rằng Trung Quốc sẽ không ngồi yên, trơ mắt ếch nhìn quyền lực Mỹ, Hàn, Nhật, phương Tây tiến đến sát biên giới họ, nằm ngay bên hông họ, thành cái gai trong mắt họ.
Trung Quốc và Nga cũng như các nước đang chống Mỹ như Iran, Syria, Palestine, Cuba, Venezuela v.v. và cả cái khối châu Mỹ Latinh, trong đó có các nước giàu mạnh như Argentina, Brazil có thể sẽ đứng về phía Triều Tiên. Trung Quốc chắc chắn sẽ viện trợ. Nga sẽ không tham chiến như thời Liên Xô, nhưng vẫn sẽ ủng hộ Triều Tiên nếu nước này bị tấn công.
Nhiều người cho rằng nếu Mỹ huy động các đồng minh bu vào vây đánh hội đồng Triều Tiên như đã làm với Afghanistan và Iraq thì sẽ dứt điểm được chính quyền Bình Nhưỡng. Tuy nhiên khách quan mà nói thì sẽ khó mà bình định được hay ít nhất làm yên ổn tình hình được như họ đã tạm thành công ở Iraq hay Afghanistan khi họ thành công tiêu diệt truy đuổi Taliban và treo cổ tổng thống Iraq Saddam Hussein. Tại Iraq có cả chục phe chống báng lẫn nhau, chống vì quyền lực, vì niềm tin tín ngưỡng, vì lợi ích tôn giáo... Afghanistan thì có 2 phe là Taliban và Al-Qaeda, mà 2 lực lượng này ngoài việc chống Mỹ ra thì họ còn chống lẫn nhau, bắn giết nhau, cho các sát thủ ám toán thủ lĩnh của nhau. Còn ở Triều Tiên thì chỉ có 1 lực lượng duy nhất, thống nhất và đoàn kết dưới niềm tin về "ánh sáng cách mạng Kim Nhật Thành" và "Chủ thể". Khác với hiện tình "quần long vô thủ", "rắn không đầu" ở Iraq và Afghanistan.
Những quan điểm chính thức của CHDCND Triều Tiên
Theo một số phim phóng sự của Triều Tiên, Trung Quốc, và phương Tây trên Internet, Youtube, khu vực "North Korea" trong diễn đàn cánh tả Soviet-Empire, và mày mò Google Translation các trang web chính thức của chính phủ CHDCND Triều Tiên thì tôi thấy quan điểm chính trị của Triều Tiên rất thú vị. Họ tuyên truyền nhiều vấn đề chỉ dựa vào sự chủ quan duy ý chí mà không dựa trên sự thật và thực tế lịch sử khách quan, và không phù hợp, tương đồng với những thông tin quốc tế, do đó họ phải bưng bít các thông tin bên ngoài, kể cả từ Trung Quốc, Nga, Việt Nam và các nước thân thiện với họ, bao gồm cả những nước cùng ý thức hệ vô sản.
Họ sửa đổi tiểu sử của Kim Nhật Thành và giấu biệt lý lịch từng phục vụ trong Hồng quân Liên Xô của ông. Họ giấu nhẹm yếu tố lãnh đạo của Mao Trạch Đông đối với hai trong những tiền thân của quân đội Triều Tiên là Quân đội Hỗn hợp kháng Nhật vùng Đông Bắc và Quân Tình nguyện Triều Tiên, cũng như việc một số sĩ quan, chiến binh tiền bối của quân đội này từng phục vụ trong Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và Hồng quân Nga. Trong khi những hồ sơ của Trung Quốc và Liên bang Nga vẫn ghi nhận những thông tin này.
Hệ thống tuyên truyền của Bắc Triều Tiên cho rằng họ đã chiến thắng trong chiến tranh Triều Tiên. Điều này rất buồn cười vì họ đánh sang Hàn Quốc nhưng bị thống tướng MacArthur đánh bại, bị đập không còn manh giáp, bỏ chạy tán loạn và toàn quân tan rã, chính phủ phải lưu vong sang Trung Quốc và phải cầu viện Trung Hoa đánh giúp. Họ không thống nhất được lãnh thổ, trái lại còn mất luôn một số lãnh thổ gần vĩ tuyến 38 trước năm 1950 vốn thuộc về họ.
Nếu họ cho rằng họ "thắng" vì đã đánh quân địch ra khỏi lãnh thổ CHDCND Triều Tiên thì họ cũng lầm, đó là đại quân Trung Hoa do nguyên soái Bành Đức Hoài chỉ huy đánh. Lúc đó quân đội Triều Tiên về cơ bản đã tan hàng rã ngũ. Cả chóp bu lãnh đạo Đảng Lao động Triều Tiên lúc ấy phải trốn tránh trong vùng Đông Bắc Trung Hoa. Hòa ước Bàn Môn Điếm theo cách nói của Triều Tiên thì đó là một nơi mà Liên Hiệp Quốc - Mỹ - Hàn đã "ký kết đầu hàng", trong khi ai cũng biết đó là một hiệp nghị đình chiến tạm thời.
Họ thường tuyên truyền một chiều, phiến diện, không đầy đủ về những tiêu cực trong xã hội Hàn Quốc. Theo họ thì đó là một xã hội đầy rẫy những sự bất công và tệ nạn xã hội, nạn thất nghiệp, tham nhũng, đình công, biểu tình xảy ra khắp nơi, khoảng cách giàu nghèo chênh lệch rất xa và ngày càng chênh lệch. Tội phạm hình sự, buôn lậu, ma túy hoành hành. Nạn tự tử, nhất là trong giới nghệ sĩ, chính trị và nhân vật nổi tiếng rất cao. Nội bộ lãnh đạo Hàn Quốc rất mất đoàn kết và sợ Mỹ. Xã hội thác loạn, mại dâm, công nghiệp tình dục và bệnh tình dục có nhiều. Thuốc lắc, thuốc cấm lưu hành khắp nơi. Môi sinh bị ô nhiễm nặng nề. Họ tự hào đó là những điều không tồn tại hoặc có rất ít ở Bắc Triều Tiên.
Ngoài ra họ cũng có một số quan điểm đáng suy nghĩ. Họ luôn có một quan điểm nhất quán rằng: Bán đảo Triều Tiên chưa thống nhất được là vì Mỹ. Mỹ phải rút khỏi Hàn Quốc. Sau khi Mỹ rút khỏi Hàn Quốc thì 2 quốc gia sẽ tiến hành hợp nhất trở lại thành 1 quốc gia như trước. Có Mỹ ở đó thì không được, Mỹ là chướng ngại vật to lớn nhất cho mục tiêu thống nhất Triều Tiên và chính sách Ánh Dương.
Họ cho là vì Mỹ mà hai anh em bán đảo Triều Tiên bất hòa, dân tộc Triều Tiên thù ghét nhau. Mỹ không những đã chia rẽ bán đảo Triều Tiên và còn ly gián dân tộc Triều Tiên. Thế nên Mỹ tuyệt đối phải rời khỏi bán đảo Triều Tiên thì sự nghiệp thống nhất quốc gia của hai bên mới có chuyển cơ tốt. Tuy nhiên, họ không làm rõ khái niệm "rời khỏi" là thế nào, rút quân đội hay là ý nói không can dự vào chuyện nội bộ Hàn Quốc, CHDCND Triều Tiên và bán đảo Triều Tiên nữa? Chứ hiện nay Mỹ chỉ còn khoảng 1 vạn rưỡi quân đóng tại Hàn Quốc.
Họ không chống Hàn Quốc, họ bảo "Hàn Quốc là anh em, nhưng Mỹ phải cút ngay". Đối tượng thù địch mà họ nhắm vào chống đối chủ yếu là Mỹ, Nhật, phương Tây, cũng như một số tổng thống và nhà lãnh đạo cụ thể của Hàn Quốc có thái độ thần phục Mỹ quá đáng hoặc hung hăng chống Triều Tiên. Những tổng thống Hàn Quốc bị họ lên án và đả kích nặng nề nhất gồm có Lý Thừa Vãn, Phác Chính Hy (họ từng cho các đội đặc nhiệm cảm tử đột nhập Nhà Xanh để ám sát Phác Chính Hy), và Lý Minh Bác ngày nay. Tổng thống Hàn Quốc được họ khen ngợi nức nở nhất là Kim Đại Trung và Lô Vũ Huyễn, hai vị tổng thống tiền nhiệm trước thời Lý Minh Bác. Kẻ thù số 1 dĩ nhiên luôn là Mỹ, nhất là gia tộc Bush, tuy nhiên họ lại khen ngợi hết lời tổng thống Clinton. Khi họ bắt giữ 2 nữ nhà báo người Mỹ gốc Hoa, ông Bill Clinton sang Bình Nhưỡng giải quyết và họ đã chấp thuận thả người.
Theo họ thì lính Hàn Quốc là một bọn lính thuộc địa bị Mỹ lừa phỉnh, gạt gẫm, mua chuộc, dụ dỗ, đa số là bọn "ma cô", chống cộng quá khích và rất "vô văn hóa", "vô giáo dục". Họ dẫn chứng bằng cách kể lại quân lính Hàn ở biên giới rất nhiều lần đã xăm mình bậy bạ tục tĩu, xúc phạm đất nước, nhà nước, và lãnh tụ của họ. Giơ ngón giữa hoặc chửi thề bằng các từ lăng mạ tiếng Anh, phô bày các bộ phận sinh dục, chửi bới lăng mạ các người lính Triều Tiên rất thậm tệ và thô tục...
Họ nói rằng Hàn - Mỹ tập trận không phải là để tự vệ mà là để thực tập tấn công vào Triều Tiên. Họ chỉ ra và phân tích chuyên môn những buổi tập, bài tập mà không phải các bài tập trận phòng thủ, mà là các bài tập trận tấn công. Cũng như một số vũ khí sử dụng trong tập trận, vốn không phải là vũ khí phòng thủ mà là vũ khí tấn công (ví dụ xe tăng, xe bọc thép).
Họ cho rằng "họ có sở hữu vũ khí hạt nhân", và phát triển vũ khí hạt nhân là điều cần thiết để bảo vệ đất nước trước âm mưu xâm lược của tất cả các kẻ thù, gồm Mỹ, Nhật, Hàn, và phương Tây.
Họ giải thích rằng sở dĩ trước đây họ rút khỏi cuộc đàm phán 6 bên là vì các nước chỉ biết đến lợi ích ích kỷ của mình, muốn "chơi cha", hiếp đáp, có thái độ kẻ cả, "người lớn", "trịch thượng" và đã không tôn trọng CHDCND Triều Tiên cũng như những lợi ích của CHDCND Triều Tiên. Họ bị bao vây và "đánh hội đồng", 5 chọi 1, và đó là một sự đàm phán không bình đẳng, do đó họ luôn yêu cầu đàm phám song phương mà quyết không đàm phán đa phương. Họ không muốn các nước lớn đàm phán trên lưng họ. Điều này có cơ sở, trong hội nghị quốc tế ở Genève, Thụy Sĩ năm 1954 về vấn đề Đông Dương, Việt Nam, Lào, Campuchia đã bị các đế quốc đàm phán sau lưng mình. Cho nên đến hội nghị ở Paris, Pháp về vấn đề Việt Nam, VN đã rút kinh nghiệm từ hội nghị Genève, kiên quyết đàm phán song phương với Mỹ chứ không chấp nhận đàm phán quốc tế.
oOo
Bán đảo Triều Tiên vẫn còn bị chia cắt, dân tộc Cao Ly vẫn chưa có được hoàn toàn độc lập, thống nhất, và trên danh nghĩa thì chiến tranh vẫn còn đang tiếp diễn, quốc gia này vẫn chưa có hòa bình thật sự vì cho đến nay vẫn không có một hiệp ước hòa bình nào được ký kết, trên phương diện pháp lý và nguyên tắc kỹ thuật thì bán đảo Triều Tiên vẫn còn đang trong tình trạng chiến tranh, mặc dù Trung Quốc - Triều Tiên và Liên Hiệp Quốc đã ký kết Hiệp ước Đình chiến tạm thời vào năm 1953.
Luật Hàn Quốc hiện vẫn không cho phép người dân tiếp nhận bất cứ thông tin nào từ phía Triều Tiên. Dưới thời tổng thống Lô Vũ Huyễn, đã có một phong trào rộng lớn của một bộ phận người Hàn Quốc đòi dỡ bỏ luật này, mặc dù có thái độ thân Triều, nhưng dưới áp lực của Mỹ, những phong trào này đã bị tổng thống ra lệnh đàn áp, dập tắt, và hiện tại nó vẫn không được thực thi. Trong khi đó, chính quyền Hàn - Mỹ vẫn vỗ ngực khẳng định rằng công dân Hàn Quốc có đầy đủ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin.
Tại Hoa Kỳ, cuộc chiến Triều Tiên đã không nhận được sự chú ý của nhiều người như Thế chiến 2 hoặc cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, vì vậy nó đôi khi được gọi là “Cuộc chiến bị lãng quên” (The Forgotten War). Nhưng làm sao lãng quên được khi cuộc chiến thực chất vẫn đang diễn ra trên bán đảo Triều Tiên, một cuộc chiến tiềm tàng, âm ỉ không tiếng súng. Nhưng tiếng súng không biết sẽ nổ ra lúc nào. Không ai nghĩ ra được giải pháp cho 1 Triều Tiên thống nhất, và cũng không ai có thể đoán được tình hình trên bán đảo này sẽ diễn ra như thế nào. Có thể chỉ nay mai sẽ thống nhất. Cũng có thể sẽ không bao giờ thống nhất, mà sẽ chia hẳn, ly khai vĩnh viễn thành các quốc gia khác nhau như Ấn Độ (chia 4), Columbia (chia 3), Hà Lan (chia 3), Tiệp Khắc (chia 2)...
Thiếu Long
Tài liệu tham khảo
- John Feffer, North Korea South Korea: U.S. Policy at a Time of Crisis, Seven Stories Press, 2003
- Kang, Chol-Hwan (2001). The Aquariums of Pyongyang. Basic Books, 2001
- Mitchell B. Lerner, The Pueblo Incident: A Spy Ship and the Failure of American Foreign Policy, University Press of Kansas, 2002
- Oberdorfer, Don. The two Koreas: a contemporary history. Addison-Wesley, 1997
- Kong Dan Oh, and Ralph C. Hassig, North Korea Through the Looking Glass, The Brookings Institution, 2000
- Barnouin, Barbara; Yu, Changgeng (2006). Zhou Enlai: A Political Life. Hong Kong: Chinese University Press
- Chen, Jian (1994). China's Road to the Korean War: The Making of the Sino-American Confrontation. New York: Columbia University Press
- Cumings, Bruce (1981). Origins of the Korean War. Princeton University Press
- Dear, Ian; Foot, M.R.D. (1995). The Oxford Companion to World War II. Oxford, New York: Oxford University Press
Stein, R. Conrad (1994). The Korean War: "The Forgotten War". Hillside, NJ: Enslow Publishers
- Bermudez, Joseph S. (2001). Shield of the Great Leader. The Armed Forces of North Korea. The Armed Forces of Asia. Sydney: Allen & Unwin
- Homer T. Hodge, North Korea’s Military Strategy, Parameters, Spring 2003
- The International Institute for Strategic Studies (IISS) (2007). The Military Balance 2007. Abingdon: Routledge Journals
- Goncharov, Sergei N., Lewis, John W. and Xue Litai, Uncertain Partners: Stalin, Mao, and the Korean War (1993)
- Kim Il-sung (2003). With the Century. Korean Friendship Association.
- Baik, Bong. Kim Il Sung: Biography. Tokyo: Miraisha, 1969–1970. 3 vols.
- Cheong, Seong-Chang. "Stalinism and Kimilsungism: A Comparative Analysis of Ideology and Power". Asian Perspective 24.1 (2000)
- Kang, Kwang-Shick. "Juche Idea and the Alteration Process in Kim Il Sung's Works: A Study on How to Read Kim Il-Sung's Works". Monash University: KSAA Conference 2001. 25 September 2001
- Kiernan, Ben. The Pol Pot Regime: Race, Power, and Genocide in Cambodia Under the Khmer Rouge, Yale University Press, 2002
- Kim, Jong-il. On the Juche Idea. 31 March 1982.
- Lee, Chae-Jin. "China and North Korea: An Uncertain Relationship". North Korea after Kim Il Sung. Eds. Dae-Sook Suh and Chae-Jin Lee. Boulder, CO: Lynne Rienner Publishers, 1998
- Sấm sét trên Thái Bình Dương, Tác giả: Albert Vulliez, Người dịch: Người Sông Kiên - Lê Thị Duyên, Nhà xuất bản: Sông Kiên, Năm xuất bản: 1974
- Ngọn lửa chiến tranh lạnh (Lãnh chiến phong hoả), Tác giả: Lý Kiện (Trung Quốc), Nhà xuất bản: Thanh Niên
- "Phật giáo Đại Hàn, trước những thử thách lịch sử", Tác giả: Trần Quang Thuận, Tu viện Quảng Đức xuất bản, 2004
- Hiến pháp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, 1972 (bản Anh ngữ)
- Tài liệu Internet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét