Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015

Những người Mỹ thầm lặng


Новость на Newsland: Тихие американцы

Тихие американцы


Аnton Stvetov

Kichbu theo: Lenta.ru

Không thể giành chiến thắng với Việt Nam bằng bom đạn và  napalm,  Hoa Kỳ đã trở lại đầu tư và viện trợ quân sự.

Năm nay đánh dấu 40 năm kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Trong thời gian này, quan hệ giữa Washington và Hà Nội đã có bước ngoặt lớn. Các cựu thù từng không ngại sử dụng bất kỳ phương tiện nào trên chiến trường, bây giờ nhìn  nhau như những đồng minh. Trong mức độ nào đó việc gia tăng sức mạnh của Trung Quốc là nước mà cả Việt Nam và Hoa Kỳ lo ngại đã thúc đẩy đến tình hình như vậy. Tuy nhiên, cũng có những yếu tố khác cho phép quan hệ Mỹ-Việt có tư cách chính thức của một "quan hệ đối tác toàn diện".

Ngày 26 tháng Mười năm 1967,  tên lửa của Việt Nam bắn rơi một máy bay ném bom của Mỹ do thiếu tá Hải quân Mỹ John McCain điều khiển. Nhảy dù ra khỏi cabin, ông bị gãy cả hai tay và không thể đưa tay lên đầu. Năm năm rưỡi tiếp theo ông là tù binh, bạc cả tóc và hai lần toan tự  tử và ký vào một số tuyên bố chống Mỹ.

 Джон Маккейн во вьетнамском плену. 1967 год
John McCain tù binh Việt Nam. Năm 1967. Photo: AP

20 năm sau khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam, John McCain cùng với một cựu chiến binh khác của cuộc chiến tranh đó, John Kerry trở thành một trong những cha đẻ cho bình thường hóa quan hệ của Washington và Hà Nội. Và  20 năm sau, 19 tháng Năm năm 2015, tại phòng họp của Thượng viện, ông  bảo vệ  lợi ích của các nhà sản xuất cá da trơn của Việt Nam, chống những người vận động hành lang từ phía Nam của Mỹ. Thật kỳ là sau 40 năm, Việt Nam và Hoa Kỳ từ là những kẻ thù không đội trời chung, không tiếc bất kỳ phương tiện nào trên chiến trường và trong tù ngục, gần như biến thành một cặp đôi thú vị nhất ở phía tây Thái Bình Dương. Hôm nay, toàn bộ khu vực chăm chú dõi theo điệu nhảy của họ.

Trong khi Liên Xô suy yếu và sụp đổ, và cùng với nó là toàn bộ  Khối Đông Âu, đảng Cộng sản cầm quyền  ở Việt Nam nhận ra rằng đất nước không thể tồn tại đơn độc. Năm 1990, quan hệ ngoại giao  bị phá vỡ sau chiến tranh biên giới năm 1979 đã được nối lại với Trung Quốc, và vào năm 1995 đến lượt Hoa Kỳ. Các cuộc tiếp xúc theo hướng khắc phục di sản nặng nề của chiến tranh đóng vai trò không nhỏ trong quá trình bình thường hóa quan hệ: đó là việc tìm kiếm hài cốt của những người lính tử trận, thu thập và trao đổi thông tin về tù nhân chiến tranh và người mất tích.

Từ  một xuất phát điểm thấp giữa những năm 1990s, quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã phát triển rất nhanh, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Sự xích lại bền vững với Washington đã giúp Hà Nội tốt hết chỗ nói - tốc độ  tăng trưởng nhanh chóng và định hướng xuất khẩu đòi hỏi tiếp cận thị trường tiêu thụ, hỗ trợ phát triển và hội nhập nhanh chóng vào các chuỗi sản xuất toàn cầu.

Nhưng những thay đổi về chất bắt đầu xảy ra trong năm năm gần đây. Quan ngại bởi sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc, từ đầu những năm 2010s, Hoa Kỳ đã bắt đầu tái cân bằng chính sách đối ngoại của mình, ngày càng chú ý nhiều hơn vào khu vực Đông-Nam. Trong bối cảnh rất khó khăn về ngân sách, "những bàn tay cuả kẻ khác" -  những đối tác truyền thống và mới của người Mỹ gần như đang đóng vai trò chính trong quá trình này. Sự ủng hộ của các đối thủ cạnh tranh của CHND Trung Hoa cho phép ít phải làm Peking khó chịu hơn bởi sự hiện diện quân sự trực tiếp, và gián tiếp tiết kiệm được sức lực và kinh phí.

Hơn nữa, Việt Nam một người bạn mới trong bố cảnh của hai người bạn cũ - Thái Lan và Philippines - trông có lợi hơn. Năm 2014 cho thấy tình hình chính trị Thái, có lẽ, quá tự do. Các cuộc đảo chính nhà nước thường xuyên làm cho Bangkok trở thành đối tác khó tiên đoán, nhưng vì giới quân sự đang nắm quyền, quan hệ hữu nghị của Hoa Kỳ và Thailand trở nên không được thuận lợi về mặt danh tính. Tại Philippines, tình hình chính trị rõ ràng ổn định hơn nhiều, nhưng vị trí  của quốc đảo, khả năng phòng thủ thấp, và gần như hoàn toàn thiếu kinh nghiệm chiến đấu làm giảm đáng kể tầm quan trọng chiến lược. Đừng quên rằng Manila và Bangkok vẫn chưa thể giải quyết các vấn đề của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan trên lãnh thổ của họ.

Ngược lại, những lợi thế của Việt Nam thật ấn tượng. Một đội quân lớn và giàu kinh nghiệm được kiểm soát tốt bởi chính phủ dân sự và đảng. Vị trí đất liền giáp giới với các khu vực phát triển nhất của Trung Quốc. Chiều dài bời biển với những cảng nước sâu, trông ra biển Hoa Nam (biển Đông-Việt Nam - Kichbu), mà hơn một nửa buôn bán hàng hải quốc tế đi qua đó. Môi trường chính trị và xã hội ổn định. Triển vọng tươi sáng cho sự phát triển kinh tế. Vì tất cả những điều này, phía Mỹ đã sẵn sàng bỏ qua sự độc quyền chính trị của đảng CS, hạn chế tự do ngôn luận, hội họp, tín ngưỡng và sự thiếu phát triển của các quy định về cơ chế thị trường.

Dĩ nhiên, Hà Nội lấy làm hài lòng với sự quan tâm như vậy của Washington. Việt Nam đang bước vào nột giai đoạn phát triển, khi những thành công của sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng cần được cũng cố bằng những bước nhảy về chất trong mô hình quản lý  để không bị mắc vào cái bẫy phát triển trung bình. Hơn nữa, sự cần thiết để đảm bảo tăng cường ảnh hưởng chính trị khu vực hợp lý bảo vệ chống lại những tham vọng tiềm năng từ gả hàng xóm không lồ phía bắc.

Trong tình hình này, sự xích lại gần nhau với Hoa Kỳ mang lại cho Việt Nam rất nhiều điều. Sau một loạt bê bối lớn hé lộ ra rằng các tập đoàn nhà nước của Việt Nam đã đầu tư tiền vay  giá rẻ và các vào các tài sản ngoài  ngành. Cùng với tham nhũng điều này đã dẫn đến những lãng phí nghiêm trọng và kém hiệu quả - hai phần ba đầu tư của nhà nước cho khu vực công, và đồng thời nó chỉ sản xuất được phột phần ba GDP. Phương pháp cơ bản để giải quyết vấn đề - tư nhân hóa các công ty như vậy, nhưng thị trường vốn trong nước ở Việt Nam là quá nhỏ để đảm bảo doanh nghiệp hóa thành công, đặc biệt xét đến tình trạng bấp bệnh của nhiều tập đoàn. Thiếu nguồn vốn nước ngoài sẽ rất khó khăn để bán cho các công ty tư nhân những tập đoàn như Vinalines - người hậu cần khổng lồ, trong trị giá tiền tỷ của nó nợ chiếm hơn 560 triệu dollars.


Nhưng thú vị nhất là sự xích lại gần nhau của Hoa Kỳ và Việt Nam trong lĩnh vực quân sự-chính trị. Cùng với Philippines, Việt Nam - một trong các bên tham gia tích cực nhất trong các tranh chấp lãnh thổ với CHND  Quốc Hoa  ở biển Hoa Nam (hoặc, người Việt Nam gọi "Biển Đông"). Trong những năm gần đây, Peking, xem vùng biển này  là khu "lợi ích căn bản" riêng của họ và bắt đầu ráo riết thể hiện quyền chủ quyền của họ bằng những động thái rộng khoát và khiêu khích lớn. Chẳng hạn, họ áp dụng lệnh cấp đánh bắt cá tại vịnh Bắc Bộ/Donkin, ra lệnh cho cảnh sát biển phạt và bắt giữ tàu thuyền đánh cá của bất kỳ quốc gia nào. Hoặc gài đặt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam giàn khoan và bảo vệ nó bằng cả một phi đội tàu bè. Năm nay, cách thức tao nhã hơn của CHND Trung Hoa để xác định ảnh hưởng của họ tại biển Hoa Nam đã thu hút sự quan tâm đặc biệt: việc xây dựng và củng cố các công trình nhân tạo trên các hòn đảo và rạn san hô. Người ta cho rằng sau khi xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết, Trung Quốc có thể thiết lập khu vực nhận dạng phòng không (ADIZ) trên các căn cứ này, tương tự như ở biển Hoa Đông.

Представитель ВМФ США изучает данные, касающиеся возведения китайцами острова на месте рифа Файери Кросс

Binh lính Hải quân Hoa Kỳ đang nghiên cứu dữ liệu liên quan việc Trung Quốc xây dựng trên đảo đá ngầm Cross Fire. Photo: US Navy / Reuters 1/2

Trên thực tế, không ai có thể nói chính xác các nguồn tại nguyên thiên nhiên ở biển Hoa Nam nhiều như thế nào - lập luận này dần dần được gác lại phía sau. Nhưng về tầm quan trọng về mặt logistic của vùng biển này thì ít ai nghi ngờ. Chỉ kẻ lười nhác mới không nhận ra rằng một nửa  thương mại hàng hải quốc tế và hai phần ba các nguồn cung cấp năng lượng đi qua những con đường giao thông này. Không chắc, trong trường hợp chiến thắng "giả định", CHND Trung Hoa sẽ đóng cửa biển này, - cuối cùng, chính Trung Quốc cũng cần một phần lớn hàng cung cấp. Người Mỹ lo ngại điều khác. Washington giải thích tự do hàng hải là cơ hội tàu thuyền tự do đi lại kể cả tàu quân sự, đi qua các khu đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác. Peking, hiện tại không "hạm đổi biển mở" phát triển, thích tự do như thế, nói nhẹ, là không chặt chẽ.

Các tiếp cần của Hoa Kỳ tại Biển Đông - một yếu tố quan trọng  nhằm kiềm chế CHND Trung Hoa. Nếu  biển này có thể với cách gọi phổ biến  hiện nay có quyền được xem là "sân sau" của Trung Quốc, thì đối với Việt Nam đó  - cổng trước. Dĩ nhiên, nói về khả năng của Hà Nội đối đầu với Peking trong trường hợp xung đột quân sự công khai không xảy ra, Nhưng để nâng cao những chi phí của Trung Quốc, Việt Nam hoàn toàn có khả năng. Và chính xác là Hoa Kỳ có thể hỗ trợ để khắc phục vấn đề này.

Sự tham gia tích cực của Washington trong chủ đề biển Hoa Nam bắt đầu vào năm 2010 khi Hillary Clinton tuyên bố rằng tự do hàng hải, cũng như an ninh và ổn định trong khu vực này thuộc về nhóm những lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, cần thiết phải  nói rõ thêm: Hợp chúng quốc một bên nào đơn phương trong tranh chấp về quyền sở hữu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sự quan tâm qua lại của Hoa Kỳ và Việt Nam góp phần thúc đẩy tăng tốc xích lại gần giữa hai nước. Trong năm 2013, mối quan hệ của họ đã nhận được vị thế "quan hệ đối tác toàn diện". Ở cấp độ diễn đàn, điều này có nghĩa rằng không có lĩnh vực nào đóng cửa đối với tương tác của họ. Trong năm 2014, đột phá đã được thực hiện trong các lĩnh vực chiến lược: rút bớt lệnh cấm vận cung cấp vũ khí chiến đấu Việt Nam và hiệp định cho phép các tập đoàn của Mỹ bán thiết bị cho nhà  máy điện hạt nhân được chấp thuận bởi Ủy ban liên quan của Thượng  viện. Tuy vậy phía Việt Nam trươc hết yêu cầu dỡ bỏ hoàn toàn lện cấm vận quân sự, - bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh cho rằng, quan hệ giữa hai nước không thể được xem là bình thường, trong khi lệnh cấm còn hiệu lực.

Trong năm 2015, thêm một sự kiện quan trọng trong quan hệ song phương sẽ diễn ra: chuyến thăm dự kiến tới Washington của tổng bí thư  Ủy ban trung ương Đảng CS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Đây sẽ là lần đầu tiên một tổng bí thư của Việt Nam sẽ đến Hoa Kỳ. Hiện tại chưa rõ vấn đề lễ tân sẽ được giải quyết như thế nào: Barack Obama không hoàn toàn thuận tiện để tiếp tại Nhà Trắng một người mà theo khái niệm của Mỹ không phải là người đứng đầu nhà nước, mà chỉ là lãnh đạo của một đảng.

 Лидер Компратии Вьетнама Нгуен Фу Чонг. 18 мая 2015
Nhà lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, 18 tháng Năm 2015. Photo: Kham/Reuters

Trở ngại hình thức này - chỉ là đỉnh tảng băng trôi của các vấn đề đang tồn tại hiện nay trong quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ. Các nhà hoạt động nhân quyền tại Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam đang chuyển động quá chậm trên con đường  phát triển dân chủ và tôn trọng nhân quyền, và không phải khuyến khích nó bằng mở rộng hợp tác. Những cái đầu nóng đôi kho đề xuất đặt vấn đề phát triển hợp tác kỹ thuật quân sự phụ thuộc  trực tiếp vào tiến bộ của ban lãnh đạo Việt Nam trong lĩnh vực nhạy cảm này.

Phương pháp này không thể không gây nên mối quan ngại ngay cả trong hàng ngũ của ĐCS Việt Nam. Những người được xem là bảo thủ cho rằng mục đích chiến lược của những hành động của Washington (hoặc, ít nhất, là nhiệm vụ  trước mắt) trong quan hệ với Biệt Mam là xóa bỏ sự động quyền của ĐCS Việt Nam về quyền lực và "diễn biến hòa bình" của chế độ chính trị tiếp theo trong nước. Những nhóm ảnh hưởng này lo sợ sự xích lại gần nhau với Hoa Kỳ làm Trung Quốc tức giận, là nước hiện đang là đối tác gần gũi nhất cảu Việt Nam.

Không mong muốn của cả Hà Nội và Washington cãi cọ với Peking - một  hạn chế lớn cho tái lập quan hệ Việt-Mỹ. Đồng thời, nên hiểu rằng ngay cả khi không"yếu tố Trung Quốc" cũng có những nguyên nhân mà vì chúng không mootjj bên nào sẵn sàng hòa nhập thành đồng minh. Hoa Kỳ không cần thêm một liên minh quân sự, có khả năng lôi kéo họ vào xung đột quân sự khu vực, còn đối với Hà Nội, tăng cường quan hệ với Washington - chủ yếu là một cách để kiếm tiền và nâng cao vị thế của mình trong các cuộc đàm phán với Trung Quốc, kiếm  một số lượng tối đa các con bài.

Tất cả điều này nhắc lại sơ đồ kinh điển cân bằng quyền lực. Việt Nam chỉ có thể duy trì (hoặc tìm kiếm) một đường lối ngoại giao độc lập nếu có quan hệ chính trị và kinh tế với cả CHND Trung Hoa và với cả Hoa Kỳ. Chỉ có như thế Việt Nam mới có thể mặc cả lợi thế của mình đối với cả hai bên. Ai đó gọi điều này là buôn bán, còn người khác - tính thực dụng, mà thiếu nó những quốc gia nhỏ đơn giản không thể tồn tại.

Vì vậy, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi thoạt nhìn váo sự xích lại gần nhau bất thường như vậy của Việt Nam và Hoa Kỳ? Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai một hiện tượng tiêu biểu trong nửa sau của thế kỷ XX - cuộc đụng độ đẫm máu một ý thức hệ này chống lại ý thức hệ khác. Sự phát triển hiện nay của quan hệ đối tác Mỹ-Việt - đó là cách thể hiện tiêu biểu ít nhiều của một thế giới đa cực đang hình thành trong mắt chúng ta. Không có gì hiện đại hơn lợi ích quân tộc, và không có gì  cổ xưa hơn tìn hữu nghị và sự thù địch.

-----

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Steps


Flag Counter