«Вьетнамцы никогда не смирятся»
“ Gazeta.ru” kể về một trong những cuộc xung đột lãnh thổ lâu đời nhất châu Á.
Vladimir
Koryagin
Kichbu theo FB
Ninh Vũ
Sự đối đầu giữa
các cường quốc ở biển Nam Trung Hoa (biển Đông-Việt Nam -Kichbu) ẩn chứa một số cuộc xung đột lãnh
thổ, mà CHND Trung Hoa là một trong số các bên xung đột. Các sự kiện gần đây
cho thấy rằng các cuộc xung đột bị lãng quên cũng có thể bùng lên với sức mạnh
mới. “Gazeta.ru” đã tìm hiểu về lịch sử của sự đối đầu giữa Trung Quốc và Việt Nam, giải
thích tại sao quần đảo Paracelles là của Việt Nam.
400 năm
không có Trung Quốc.
Trong thế kỷ XX
biển Nam Trung Hoa đã trở thành một trong những điểm nóng tiềm tàng, mà các
cuộc đụng độ ở đó có thể gây khởi đầu cuộc Chiến tranh thế giới thứ ba. Tuy
nhiên lịch sử cuộc xung đột về những vùng lãnh thổ tranh chấp ở vùng mặt nước
của biển này đã có ít nhất vài thế kỷ.
Về cơ bản các bên
xung đột thường đưa ra các bản đồ và hải đồ cũ, trên đó có đánh dấu các vùng
lãnh thổ đề làm bằng chứng cho quyền của mình sở hữu các đảo.
Quần
đảo Paracelles
Quần đảo
Paracelles nằm ở giữa 15 độ 46 và 16 độ 11’ vĩ độ Bắc và giữa 111 độ 11’ và 112
độ 54’ kinh Đông. Quần đảo Paracelles lần đầu tiên được nhắc tới vào thế
kỷ XVII trong “ Bộ bản đồ đường đến các Vùng đất phương Nam” của Việt Nam
dưới tên gọi Hoàng Sa cùng với quần đảo Spratli. Theo các tài liệu lịch
sử, năm 1721 “Hải đội Hoàng Sa” ( Hoàng Sa - tên của Việt Nam gọi quần
đảo Paracelles) đã được thành lập để tập trung khai thác các đảo ở biển Nam Trung
Hoa, cũng như để trang bị cho các tầu đi theo hướng tới các đảo này.
Trong khi đó các
tài liệu của Trung Quốc thời kỳ đó, gồm có bộ sách mô tả Đại Vương Triều Nhà
Thanh, cả Spratly, lẫn Paraselles đều không được nhắc tới.
Chỉ có ít các nhà
hàng hải Pháp và Hà Lan bơi qua được biển Nam Trung Hoa và đến được Việt Nam mới nhớ đến
quần đảo Paracelles. Họ viết rằng bản thân người Việt Nam đã nhận
được khối lượng lớn các khẩu pháo, đạn và các đồ quí giá khác được chuyên chở
trên các tàu bị đắm ở khu vực quần đảo này. Những người Việt Nam có đầu óc
nhanh nhậy còn thành lập cả đội tàu nhỏ có nhiệm vụ kiểm soát tàu bè nước
ngoài làm nghề ở khu vực Paracelles.
Vào đầu thế
kỷ XIX, Gia Long- vị Chúa Nguyễn cuối cùng và là Vua nhà Nguyễn đầu tiên của
Việt Nam- tuyên bố chủ quyền của Việt Nam
đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (tên của Việt Nam gọi
Spratly). Cũng trong thời gian đó số lượng lớn ấn phẩm bản đồ khác nhau được
phát hành, trong đó quần đảo Paracelles được đánh dấu là lãnh thổ của Việt Nam. Còn vào
năm 1838 nhà truyền giáo Pháp Jean-Louis Taber xuất bản Tự điển La-tinh-
Việt Nam (Dictionarium Latino-Annamiticum completum et novo ordine dispositum), trong đó quần đảo Hoàng Sa được nhắc đến là Paracel seu Cát vàng
Quần đảo Hoàng Sa
có được tên gọi kiểu châu Âu là nhờ chuyên gia vẽ bản đồ người Hà Lan W.
Yanszon Blaeu đã sử dụng từ “Pracel”. Rồi nhờ tay của các nhà hàng hải Pháp cùng với
thời gian nó đã biến thành “Le Paracel”. Còn vào cuối thế kỷ XIX hai tàu chở
đồng của Anh bị đắm ở khu vực Paracelles. Dân cư tỉnh Hải Nam Trung Quốc
đã vớt kim loai quí lên và chiếm đoạt, làm cho chính quyền Anh bất bình.
Khi đó người Trung
Quốc trả lời nhà cầm quyền Anh rằng Paracelles không phải là lãnh thổ của
Trung Quốc, vì vậy chính quyền nước này không thể chịu trách nhiệm gì về việc xảy
ra ở quần đảo.
Sự trỗi dậy
của kẻ bá quyền
Tình hình tương tự
có thể được duy trì cả trong thòi kỳ cai trị của thực dân Pháp nếu như không có
sự đối đầu Anh-Pháp mà Trung Quốc và Việt Nam đứng ở phía các bên tương ứng.
Như vậy, năm 1933 ra đời tập “ Tân Bản đồ phân chia hành chính của Trung Quốc”,
trong đó Spratly và Paracelles được gọi bằng tên Trung Quốc là Nam Sa và
Tây Sa và thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Dưới ánh sáng của những hoàn cảnh đó chính quyền thuộc địa Pháp đã có những hành động nhất định: Toàn quyền Đông Dương Brevie đã lập bộ máy chính quyền ở quần đảo Paracelles, còn tại đảo Pettel thuộc quần đảo này đã xuất hiện tấm bia với dòng chữ “Cộng hòa Pháp- Vương quốc Annam- Quần đảo Paracelles, năm 1816”.
Cũng trong khoảng
thời kỳ này, Nhật Bản đẩy mạnh hoạt động, thoạt đầu chiếm Spratly, còn khi bắt
đầu chiến tranh thế giớ thứ 2 thì chiếm cả Paracelles.
Năm 1946 người
Pháp và Việt Nam đã ra quần đảo Paracelles để giải giáp quân Nhật đang ở đó,
tuy nhiên quân Trung Quốc đã làm trước họ. Quân Trung Quốc trong vòng một ngày đêm đã
cắm chốt trên quần đảo này, còn năm 1947 Tưởng Giới Thạch ra Sắc lệnh, theo đó
Spratly và Paracelles chính thức có tên gọi theo tiếng Trung Quốc và thuộc thành phần
của nước này. Bắc Kinh khi đó đã không đếm xỉa đến sự phản đối của các chính
phủ Việt Nam
và Pháp.
Khi Tưởng Giới
Thạch và các cộng sự Quốc Dân Đảng chạy ra Đài Loan, các đồn quân đóng ở quần
đảo Paracelles cũng đi theo. Điều này cũng không cản trở những người cộng sản
do Mao Trạch Đông đứng đầu lên nắm quyền thay đưa ra tham vọng đối với
Quần đảo. Đồng thời Nhật Bản chính thức từ bỏ mọi quyền và yêu sách đối với các
quần đảo Paracelles và Spratly. Đây là một trong các điều khoản của Hòa ước
San- Francisco được ký năm 1951.
Năm 1956 đội quân
viễn chinh Pháp rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, và từ thời điểm đó người Việt Nam
bị chia thành hai quốc gia buộc phải chống lại chính sách bành trướng của Trung
Quốc chỉ bằng sức lực của mình, tuy rằng về sau họ có thể trông cậy vào sự ủng
hộ trực tiếp từ phía Mỹ. Ngay trong năm 1956 Trung Quốc chiếm đóng một phần quần
đảo Paracelles, còn người Việt Nam chiếm giữ những nơi trrước đây quân Pháp đồn trú.
Tình hình căng
thẳng tiếp theo xảy ra vào năm 1959, khi Trung Quốc đưa tới quần đảo 80 người và vật
liệu xây dựng, họ xây nhà cửa, sau đó dựng cờ Trung Hoa. Lính biên phòng
Nam Việt Nam
đã đến khu vực ngay lập tức và bắt giữ tất cả nhưng người ở đó. Sự bực tức của chính
quyền Bắc Kinh chỉ được thể hiện trong các tuyên bố ở cấp Bộ Ngoại giao, bởi
lẽ Trung Quốc sợ đụng độ với lực lượng của Mỹ đã đến hỗ trợ cho người Việt Nam.
Năm 1964 lực lượng
của Mỹ đứng về phe của Nam Việt Nam
đã bước vào cuộc chiến giữa Bắc và Nam Việt Nam. Miền Bắc Việt Nam được sự ủng
hộ truyền thống từ phía Liên Xô và Trung Quốc.
Trung Quốc bắt đầu
bình thường hóa quan hệ với Mỹ từ năm 1971, đã có thể lợi dụng thất bại của Mỹ
trong cuộc chiến tranh Việt Nam
cho lợi ích của mình. Điều này đã cho phép Trung Quốc hợp thức hóa các
tham vọng đối với quần đảo Paracelles, còn trong năm 1974 đã chiếm quần đảo.
Vào thời điểm đó Mỹ đang bận việc chuẩn bị ký Hiệp định hòa bình giải quyết
cuộc xung đột Viêt Nam.
Lúc này Mỹ đã rút quân khỏi tất cả các khu vực then chốt ở miền Nam Việt Nam. Trong khi
đó miền Bắc Việt Nam tập hợp
lực lượng để giáng đòn cuối cùng ở Nam Việt Nam và chiếm Sài Gòn.
Một mặt, Trung
Quốc có thể chiếm quần đảo Paracelles vì Hải quân của Nam Việt Nam
không có sự hỗ trợ của Mỹ rất yếu ớt, còn Trung Quốc và Mỹ đã không còn là
đối thủ của nhau. Mặt khác, Bắc Việt Nam
sau chiến thắng ở Nam Việt Nam,
có thể đòi quần đảo Paracelles, lại bận vì cuộc chiến khác.
Như vậy việc Trung
Quốc chiếm đoạt và chiếm đóng quần đảo Paracelles thành vấn đề đã được
giải quyết. Để khởi đầu chiến dịch Trung Quốc chỉ cần một cái cớ, còn tuyên bố của
Nam Việt Nam rằng quần đảo Spratly thuộc tỉnh Phước Tuy hóa ra không thể thích
hợp hơn. Trong 20 ngày đầu năm 1974 quần đảo Paracelles bị CHND Trung Hoa nắm
quyền kiểm soát - người Trung Quốc đã đàn áp dã man binh sĩ Nam Việt Nam đóng ở đó
và bắt đầu chuẩn bị bành trướng về phía quần đảo Spratly.
Bắc Kinh
gây chuyện
Kể từ đó lập
trường của Trung Quốc đối với biển Nam Trung Hoa không có sự thay đổi thực tế
nào. Ví dụ trong thời gian đó đã diễn ra sự liên kết với ASEAN và thành lập khu
vực mậu dịch tự do. Tuy nhiên vào đầu những năm 1990 đã phát hiện được các
mỏ dầu và khí đốt cách không xa quần đảo Paracelles đã không làm cho Trung Quốc
yên tâm trong tất cả các năm qua. Các cuộc đụng độ ở cấp độ cục bộ vẫn tiếp
diễn ở biển Nam Trung Hoa, tuy nhiên sự việc chưa đạt tới mức đối đầu vũ trang.
Về cơ bản các bên chỉ bắt giữ các tàu đánh cá của các đối thủ, cũng như gây ra
các vụ khiêu khích khác nhau. Về mặt này Trung Quốc đặc biệt nổi trội.
Tình thế như vậy
đã buộc nhiều nước ở khu vực hướng về phía Mỹ. Sau khi Barak Obama được bầu làm tổng thống, thuật ngữ “ Quay sang châu Á” bắt đầu được sử dụng, còn
Hillary Clinton, ngoại trưởng Mỹ khi đó đã trở thành biểu tượng của chính sách
này.
Cuối tháng tư, tình
hình ở biển Nam Trung Hoa lại trở nên căng thẳng, Chính quyền Bắc Kinh thông qua
tuyên bố của Bộ Ngoại giao, thông báo cho Việt Nam là đưa giàn khoan dầu
HD-981 có kích thước bằng hai sân bóng đá tới quần đảo Paracelles. Và gần 60
tầu phòng vệ ven bờ của Trung Quốc hộ tống con quỷ biển này. Lẽ tự nhiên, Hà Nội
không thể không nhận ra điều đó và đã đưa các lực lượng bảo vệ bờ biển hướng về phía
tàu Trung Quốc.
Trong vòng mấy ngày
đã xảy ra các vụ va chạm, phía Trung Quốc đã dùng súng bắn nước. Và điều đó
diễn ra hoàn toàn không phải ở vùng kinh tế đặc quyền của Trung Quốc.
Washington đã lên án những hành động bất hợp pháp đó của Trung Quốc, các cường
quốc khác ở Đông Nam Á cũng không bỏ qua các hành động này. Các sự kiện bất ngờ
đã diễn ra ở ngay Việt Nam: nếu như đầu năm 2014 chỉ có 20 người xuống đường biểu tình
nhân 40 năm ngày Trung Quốc chiếm quần đảo Paracelles, thì bây giờ có gần 20
ngàn người xuống đường phố ở Hà Nội.
Cuộc biểu tình tự
phát đã nhanh chóng biến thành các vụ đập phá. Kết quả 21 người thiệt mạng,
trong đó không chỉ có công dân của CHND Trung Hoa, mà cả công dân Đài Loan,
Singapore và Malaysia.
Trung Quốc
đã điều một số tàu đến Việt Nam đưa công dân của họ về nước, lo sợ bạo lực tiếp tục leo thang. Từ thời điểm đó
công việc của các nhà máy của một loạt công ty Trung Quốc đóng trên lãnh thổ
Việt Nam,
thực tế bị đóng cửa. Trong khi đó Mỹ buộc tội Trung Quốc làm mất ổn định tình
hình ở Đông Nam Á và kêu gọi Việt Nam sử dụng các cơ chế pháp lý để đáp lại việc
Trung Quốc triển khai hoạt động khai thác dầu ở các vùng lãnh thổ tranh chấp của biển Nam
Trung Hoa.
Tuy vậy CHND Trung
Hoa không đưa ra câu trả lời có tính xây dựng đối với những đòi hỏi hợp pháp từ
phía các đại diện của cộng đồng quốc tế.
Báo “
Gazeta.ru” đã trao đổi với các chuyên gia có uy tín nhất trong lĩnh vực biển
Nam Trung Hoa và quan hệ Viêt-Trung để làm rõ chuyện gì đang thực sự diễn ra và
triển vọng giải quyết cuộc xung đột này như thế nào.
Người
đầu tiên trong số các chuyên gia này là ông Grigoriy Lokshin, Phó tiến sĩ khoa
học lịch sử, nhà khoa học hàng đầu của Trung tâm nghiên cứu Việt nam và
ASEAN của Viện Viễn Đông, Viện Hàn lâm khoa học Nga.
“ Tôi cho rằng, việc hạ đặt giàn khoan của Trung Quốc ở
quần đảo Paracelles trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là sự vi phạm thô
bạo luật pháp quốc tế, vi phạm Công ước về Luật biển năm 1982, do đó đối với
tôi ở đây không có vấn đề nào cả.
Còn tiếp theo thì
hoặc Trung Quốc lựa chọn chính sách tấn công và tiếp tục làm căng lập trường
của mình mà họ đã thi hành trong thời gian khá dài nhằm mưu toan chứng minh
rằng biển Nam Trung Hoa thực tế là “ao nhà của Trung Quốc”, bởi vì nó được giới hạn
bởi tham vọng của họ đối với 90% vùng nước của biển này.
Hoặc Trung Quốc
bắt đầu cải thiện quan hệ với các nước láng giềng của họ - không chỉ với Việt
Nam, mà còn với Philippines, Malaysia và Bruney- là các quốc gia khác có đòi
hỏi thực tế và hợp pháp đối với phần của mình ở vùng nước này phù hợp với các
công ước và quan hệ quốc tế.
Trung Quốc
đã coi thường các thỏa thuận đạt được trong khuôn khổ ASEAN, bởi vì các thỏa
thuận này có tính chất tuyên bố, nó không có tính chất pháp lý bắt buộc chặt
chẽ. Đó không phải là bộ luật. Ví dụ “Tuyên bố về các nguyên tắc ứng xử ở biển
Nam Trung Hoa” được thông qua từ năm 2002. Nhưng rất tiếc là trong suốt thời
gian này tuyên bố và các hành động không trùng hợp. Tất cả các bên đều có vi
phạm, đặc biệt là từ phía Trung Quốc - những vi phạm này là đơn phương, là chính
sách gây việc đã rồi và rất nhiều điều khác.
Còn sự trổi dậy tinh thần dân
tộc ở Việt Nam
gắn với chính sách của Trung Quốc gây nên sự phẫn nộ rất lớn. Cá nhân
tôi đã đến các đảo, cụ thể ở đảo Lý Sơn, nơi cách giàn khoan của Trung
Quốc 100 hải lý. Toàn bộ phần bờ biển của Việt Nam - đó là các tỉnh rộng lớn, hàng
triệu người sống nhờ các sản phẩm của biển Nam Trung Hoa - cá, hải sản.
Và khi người ta
không cho họ ra vùng lãnh thổ do một viên quan Quốc Dân Đảng nào đó đánhđấu
đơn giản như vậy trên bản đồ năm 1947 và tuyên bố rằng bây giờ đó là lãnh thổ
của Trung Quốc và các vị không có việc gì làm ở đây cả, khi các thuyền đánh cá
bé nhỏ bất hạnh đó đánh bắt ( và ở đó khó có thể đánh bắt được gì), thì họ đưa đủ
các loại tàu tuần tiễu ra xua đuổi các thuyền đánh cá này. Vậy thì cách ứng
xử như vậy có thể gây ra phản ứng như thế nào ở đất nước mà vẫn còn lưu giữ ký
ức lịch sử từ hàng nghìn năm đô hộ từ phía Trung Quốc đối với Việt Nam? Tuy nhiên
sự phẫn nộ này cũng đem lại những hậu quả tiêu cực đối với chính Việt Nam”- ông
Lokshin nói.
Ngoài ra, ông Ivan Melnikov, Phó Chủ tịch thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Liên
bang Nga, Phó Chủ tịch thứ nhất Đu-ma Quốc gia đã đồng ý đưa ra lời bình luận.
“Cả Trung Quốc,
lẫn Việt Nam đều có lợi ích của mình ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Có
những vấn đề tranh chấp lâu năm, trong đó có lãnh thổ, nơi các lợi ích này có
mâu thuẫn. Như mọi người rõ, lịch sử cũng đã biết đến những cuộc xung đột vũ trang
giữa hai nước.
Trong khi đó nước
Nga có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với nước này và với nước kia, nếu
như nói về ngoại giao. Và cả trong mối quan hệ hữu nghị chân thành, nếu như nói
tới quan hệ con người bình thường. Vì vậy điều tự nhiên, lô-gích và đúng đắn là
trong các vấn đề này chúng ta sẽ không đứng sang bên này hoặc bên kia một
mi-li-mét nào.
Lập trường của
nước Nga cần được xây dựng để không cho xẩy ra đổ máu trong việc giải quyết các
vấn đề gây tranh chấp và tuân theo các văn kiện quốc tế về các vấn đề này được
thừa nhận chung, trong đó có CHND Trung Hoa và CHXHCN Việt Nam.
Mong rằng hai đất
nước thân thiện với chúng ta tìm ra các biện pháp đưa tới trạng thái quan hệ đã
được định ra trong tháng 10 năm ngoái, khi thủ tướng CHND Trung Hoa Lý Khắc
Cường và thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng gặp nhau tại Hà Nội và đã tạo sự
đột phá trong việc phát triển quan hệ song phương trên nhiều lĩnh vực. Khi đó tất
cả bạn bè của Trung Quốc và bạn bè của Việt Nam đều thấy chương trình nghị sự
tích cực của mối quan hệ Trung –Việt có thể rộng lớn như thế nào. Hôm nay tiềm
năng đó vẫn còn, cần phải tìm ra điểm tựa trong đó”. – ông Melnikov nói.
“Gazeta.ru”
đã liên hệ được với ông Carl Thayer- giáo sư Học viện Quốc phòng Austraylia và
là một trong những chuyên chuyên gia có uy tin nhất về biển Nam Trung Hoa.
“ Cuộc khủng hoảng
liên quan với việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan của họ trong vùng đặc quyền kinh
tế của Việt Nam, đi vào ngõ cụt, Trung Quốc đã đưa hơn 100 tầu, máy bay
quân sự tới quần đảo Paracelles. Việt Nam không có ý định lùi bước khỏi
lãnh thổ của mình và đang thách thức sự hiện diện của Trung Quốc trong các vùng nước
của mình. Một sai lầm nhỏ nhất - và sự cố có thể biến thành cuộc chiến tranh qui
mô lớn. Tuy nhiên hiện giờ cả hai bên đều tránh việc đối đầu quân sự công khai .
Các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đã ra tuyên bố riêng, bày tỏ sự lo ngại về sự việc đang diễn ra. Tuy vậy các nhà lãnh đạo ASEAN sau cuộc gặp cấp cao đã không đưa ra được tuyên bố nào. ASEAN sẽ không chống lại Trung Quốc, mà sẽ tiếp tục hợp tác với Trung Quốc. Một số thành viên ASEAN như Philippines, Malaysia, Singapore và Indonesia sẽ tìm kiếm sự giúp đỡ từ phía Mỹ. Mỹ đang giữ lập trường trung lập đối với các tranh chấp trên biển. Cuộc xung đột hiện nay xung quanh giàn khoan đã làm bộc lộ sự cách biệt giữa lời nói khoa trương kiểu Mỹ và khả năng của Mỹ áp dụng các biện pháp hữu hiệu. Người Mỹ sợ áp dụng các biện pháp trừng phạt chống Trung Quốc và sẽ không tác động trực tiếp tới tình hình.
Nga đang đứng
trước sự lựa chọn. Hai nước đều là đối tác chiến lược của Nga, Nga cung cấp cho
họ vũ khí chiến đấu hiện đại. Tôi cho rằng, Nga sẽ kêu gọi các bên giải quyết
cuộc xung đột bằng con đường hòa bình”.
Cuối cùng, ông
Nikolai Kolesnik, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Tổ chức xã hội liên khu vực cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam đã chia sẻ ý kiến của mình với
“Gazeta.ru”
Tưởng chừng rằng
hai quốc gia láng giềng có lịch sử phong phú hàng nghìn năm, có sự giao lưu văn
hóa và tôn giáo và quan hệ kinh tế và dân tộc chặt chẽ, còn điều chính là có
chế độ chính trị-xã hội giống nhau, có thể giải quyết mọi vấn đề tranh chấp
bằng con đường hòa bình, nhưng, tiếc thay…
Bản thân tôi cho
rằng trách nhiệm về những gì đang diễn ra hoàn toàn thuộc về phía Trung Quốc,
là nước đã bắt đầu hạ đặt giàn khoan trong vùng tranh chấp không có sự tham khảo ý
kiến trước và thỏa thuận với Việt Nam, hành động với tư thế của kẻ mạnh hơn, coi
thường lợi ích và quyền của nước láng giềng.
Tôi rất kính trọng
người Trung Quốc, bởi vì mẹ vợ tôi sinh ra ở Cáp Nhĩ Tân trong gia đình
nhân viên đường sắt làm việc trên tuyến đường sắt Viễn Đông - Trung
Quốc và sống ở đó đến năm 1935. Bà đã kể nhiều về tính cần cù lao động khác
thường của người dân Trung Quốc và mối quan hệ tốt đẹp, kính trọng lẫn nhau với
các hàng xóm Trung Quốc.
Còn tôi biết người
Việt Nam
không phải nghe qua lời kể. Gần một năm trời tôi đã kề vai sát cánh cùng các
chiến sĩ Việt Nam giáng trả các cuộc tấn công của máy bay Mỹ. Cùng với đức tính
hiền lành, tốt bụng, sự kính trọng và sự sẵn sàng giúp đỡ cả người hoàn toàn
không quen biết, người Việt Nam còn nổi bật về tình đoàn kết, sự hy sinh quên
mình, tương trợ lẫn nhau, ý chí quyết tâm giành chiến thắng.
Sự thật lịch sử là
cờ của Việt Nam đã xuất hiện năm 1816 trên quần đảo Paracelles hiện nay đang bị
tranh chấp, còn Trung Quốc 70 năm sau mới tuyên bố về yêu sách của mình đối với
các đảo này. Tôi biết người Việt Nam, nên có thể cho rằng họ sẽ không bao giờ
cam chịu với vai trò "kẻ có số phận đau khổ” mà Trung Quốc đưa ra cho họ
và sớm hay muộn người Việt Nam sẽ giành được sự công bằng lịch sử đối với việc
sở hữu quần đảo Paracelles. Mọi mưu toan giải quyết sự tranh chấp lãnh thổ này
bằng vũ lực - đó là con đường cụt kết thúc bằng vực thẳm”.
Ý kiến của ông
Ilya Usov, nhà khoa học Viện nghiên cứu chiến lược Nga.
“Tôi muốn xem xét
cuộc xung đột mới bùng nổ giữa Trung Quốc và Việt Nam từ góc độ tình hình chính
trị đã thay đổi đối với nước Nga. Trước hết tôi nói về các sự kiện đang xảy ra ở
Ucraina, phản ứng của phương Tây đối với các sự kiện đó và chuyến thăm Trung
Quốc mới đây của ông Putin. Sự điều chỉnh đường lối chính trị của Mát-xcơ-va
chắc chắn đã diễn ra. Nước Nga ngày càng hướng về phương Đông. Bản thân châu Âu
và Mỹ thúc đẩy chúng ta làm điều đó. Thực ra, việc chuyển hướng sang phương
Đông diễn ra một chiều - Nga ngày càng hướng về Trung Quốc nhiều hơn.
CHND Trung Hoa và
CHXHCN Việt nam là các đối tác chiến lược duy nhất của Nga ở Đông Á. Trước đây đất nước của chúng ta giữ lập trường trung lập trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ ở biển
Nam Trung Hoa. Với sự thay đổi đường lối chiến lược của Nga đang xuất hiện nguy
cơ (đó thực sự là nguy cơ) là Mát-xcơ-va có thể xem xét lại thái độ của mình
đối với lập trường của các bên ở biển Nam Trung Hoa, chuyển dịch lập trường
hoàn toàn trung lập của mình sang phía Trung Quốc. Tuy vậy, tôi cho rằng, nếu
như điều này xảy ra, đó sẽ là sai lầm”- ông Usov giải thích.
* Bản gốc tiếng Nga xem tại đây.
------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét