Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2011

“Tôi nói, cơ chế sản sinh ra tham nhũng…”

“Tôi nói, cơ chế sản sinh ra tham nhũng…”

GS. Hoàng Tụy
Nguồn: Tạp chí Lập pháp

Nguồn: phiatruoc.info

Kichbu post on thứ hai, 19.09.2011

Tham nhũng là một quốc nạn, điều đó ai cũng nói và cũng biết. Song để phòng, chống và hạn chế được tình trạng tham nhũng không phải là điều dễ dàng. Cho đến nay, chúng ta vẫn đang trên con đường tìm tòi, xin ý kiến nhân dân để chọn ra các giải pháp, các biện pháp đủ mạnh và hiệu quả để phòng và chống tham nhũng.

Trăn trở, bức xúc với quốc nạn này, Giáo sư Hoàng Tuỵ đã có những tâm sự rất chân về tham nhũng và chống tham nhũng của Việt Nam hiện nay. Theo ông, muốn chống tham nhũng có hiệu quả, bên cạnh những biện pháp trừng trị, vấn đề cơ bản là phải phòng ngừa bằng cách thay đổi cơ chế, mà trước hết là xem xét lại chế độ tiền lương.

Trừng trị là biện pháp cần nhưng chưa đủ

Tôi cho rằng, tham nhũng là một khối u nhức nhối vô cùng. Nếu chúng ta không cắt được khối u ấy, không cách nào làm cho xã hội phát triển mạnh được. Tham nhũng ở Việt Nam đã đến mức nghiêm trọng. Do vậy, chống tham nhũng là vấn đề cấp bách, cần thiết nhất hiện nay. Nhưng theo tôi, trong xã hội ta, từ lâu, tuy mọi người đều lên án mạnh mẽ nhưng không phải ai cũng sẵn sàng tuyên chiến quyết liệt với quốc nạn này.

Cho đến nay, tôi thấy các biện pháp mà Dự luật phòng, chống tham nhũng đưa ra vẫn chỉ là những phương pháp cổ điển mà chúng ta đã sử dụng hàng ba chục năm nay, bây giờ nói mạnh hơn chứ chưa thấy có phương pháp gì mới. Vậy làm sao hy vọng công cuộc phòng, chống tham nhũng sẽ có hiệu quả mang tính đột phá được? Trong vòng vài mươi năm lại đây, ai có chút liêm sỉ đều coi tham nhũng là quốc nạn và nhiều vụ tham nhũng lớn cũng đã bị phanh phui và trừng trị, ấy thế mà mỗi năm, số vụ tham nhũng vẫn cứ tăng, không hề giảm mà các thủ đoạn tham nhũng ngày càng trở nên tinh vi hơn. Mấy thập kỷ rồi, tất cả các biện pháp đó đều đã được sử dụng mà tình trạng vẫn chưa thay đổi bao nhiêu, lại có vẻ trầm trọng hơn, thì tại sao chúng ta không xét xem có biện pháp nào khác hữu hiệu hơn không ? Muốn thế cần tìm hiểu căn nguyên tại sao tham nhũng ở ta tràn lan, từ dưới lên trên cấp nào cũng có, nơi nào cũng có, chỉ khác nặng với nhẹ ?

Trừng trị là cần thiết, nhưng ta chỉ có thể trừng trị nặng những tội tham nhũng lớn, còn đối với tình trạng tham nhũng tràn lan như ở ta hiện nay thì làm sao trừng trị cho hết được. Mà chừng nào tham nhũng còn tràn lan thì đó chính là vỏ bọc che chắn cho bọn tội phạm tham nhũng lớn. Cho nên cần đi sâu hơn vào nguyên nhân sinh ra tham nhũng tràn lan, tìm ra biện pháp khắc phục nó thì mới đấu tranh có hiệu quả chống tham nhũng. Các biện pháp trừng trị là cốt để răn đe, ngăn ngừa nhưng trừng trị chỉ có hiệu quả khi nào đại đa số cán bộ, công chức không cần và không muốn tham nhũng.

Thời kháng chiến chống Pháp, Trần Dụ Châu khi đó là cán bộ cao cấp bị tử hình vì tội tham nhũng. Đó là một vụ án làm rung động cả nước và sau đó thì hầu như không còn tham nhũng nữa. Nhưng tình hình hồi đó khác bây giờ. Hồi đó, trong kháng chiến, cán bộ công chức nói chung đều đủ sống, tuy mức sống rất thấp nhưng là mức chung trong xã hội, ai cũng cảm thấy công bằng. Cho nên tham nhũng có xuất hiện cũng chỉ lẻ tẻ ở cấp cao, ở bên trên thôi. Nghĩa là tình hình lúc ấy khá giống như ở các nước tiên tiến bây giờ, chỉ những quan chức có quyền lực nhiều mới tham nhũng được, do đó số vụ tham nhũng không nhiều, tác hại hạn chế, họ lại có cơ chế quản lý tốt nên dễ phát hiện và có thể xử lý tham nhũng đến nơi đến chốn.

Còn với hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam, tôi có thể hình dung thế này: lương tôi thấp không đủ sống, tôi nhìn ra bên cạnh thấy mọi người đều sống tốt cả, mà đâu phải năng suất lao động của tôi quá tồi so với xã hội, nên tôi suy ra là tôi bị thiệt, bị trả lương thấp hơn mức tôi đáng được hưởng, nên tôi phải tìm cách xoay xở để có được mức thu nhập xứng đáng hơn. Ban đầu chỉ suy nghĩ như vậy, về sau nhìn xung quanh thấy ai cũng thế cả, ai cũng xoay xở để tồn tại, để bù vào sự thiếu hụt của tiền lương phi lý, nên dù có phải phạm pháp chút ít lương tâm vẫn cho là bình thường. Cứ thế dần dần những vụ phạm pháp, tham nhũng ban dầu chỉ lặt vặt, có thể “thông cảm” được, ngày càng trở nên phổ biến, nhiều nơi nhiều lúc phát triển vượt quá giới hạn bình thường. Không chỉ cấp cao, có nhiều quyền lực mới tham nhũng, mà tham nhũng tràn lan, phổ biến, từ dưới phát triển lên cao dần, càng lên cao càng trầm trọng và càng khó phát hiện vì được bảo vệ bởi cái vỏ bọc kiên cố từ dưới. Vì vậy, bây giờ nếu chỉ tập trung phát hiện và trừng trị đích đáng một số vụ tham nhũng lớn,…tôi e rằng vẫn chưa đủ, tuy rất cần thiết. Chống tham nhũng với các biện pháp lâu nay đã dùng rồi thì chỉ chống được ở phần ngọn. Còn nếu thật sự muốn chống tham nhũng có hiệu quả, muốn chống triệt để thì phải phòng, chống từ gốc, tức là phải sửa ngay từ cơ chế quản lý. Bởi vì chính cơ chế này là nguyên nhân sinh ra tham nhũng !

Cơ chế sinh ra tham nhũng

Muốn chữa bệnh có hiệu quả phải hiểu cơ chế phát sinh ra bệnh. Tham nhũng ở nước ta hiện nay như vết thương từ bên trong cơ thể, từ trong máu, nhưng chúng ta chỉ chăm chú chữa trị những lở loét bên ngoài, bôi hết thuốc này đến thuốc khác, cứ chỗ này vừa khỏi thì bung ra chỗ khác, dịu đi một chút rồi bùng phát trở lại, có khi còn dữ dội hơn trước và ngày càng khó chữa trị. Cần phải hiểu tham nhũng ở ta là căn bệnh từ cơ chế. Nhưng rất tiếc trong các biện pháp đưa ra trong dự thảo Luật phòng, chống tham nhũng không thấy đề cập tới biện pháp nào về cơ chế. Mà trong cơ chế thì phi lý và tiêu cực nhất, cần và có thể sửa ngay nếu có quyết tâm, là cơ chế tiền lương và thu nhập của công chức, cán bộ. Thứ đến là cơ chế chi tiêu thanh toán phổ biến dùng tiền mặt, khiến cho việc ăn cắp công quỹ khá dễ, và sau nữa, nhưng quan trọng không kém là cơ chế đề bạt cất nhắc cán bộ thiếu công khai, minh bạch, dễ dẫn đến tệ mua quan bán chức.

Vấn đề đã nêu ra ngót 30 năm nay

Thật ra vấn đề chẳng có gì mới. Gần đây nhiều chuyên gia quốc tế đã khuyến cáo. Trong một dịp được tiếp xúc với cấp lãnh đạo cao nhất năm 1978, tôi cũng đã từng nêu ra ý kiến như trên để trả lời câu hỏi làm sao chống tiêu cực có hiệu quả (hồi đó chỉ mới nói chống “tiêu cực” chứ chưa nói chống “tham nhũng”). Muốn hiểu tại sao cơ chế quản lý lại có thể là thủ phạm sản sinh ra tham nhũng và bảo vệ tham nhũng chỉ cần suy nghĩ về điều mấu chốt này: tiền lương cơ bản hiện nay của đại đa số công chức, cán bộ chỉ đủ sống được khoảng mươi ngày. Thế nhưng thực tế phần đông vẫn sống đàng hoàng, nhờ thu nhập “phụ” thường cao hơn mức lương chính 3-4 lần, thậm chí có khi cả chục, cả trăm lần. Vậy nguồn thu nhập “phụ” đó ở đâu ra? Có phải là từ công quỹ Nhà nước, từ đóng góp của dân, hay có nguồn nào từ trên trời rơi xuống? Lấy ví dụ ngành giáo dục là một ngành tương đối ít tai tiếng tham nhũng: khi tôi tìm hiểu chế độ lương, phụ cấp các loại trong ngành này thì nhận được một tập dày cộp không biết bao nhiêu thông tư, chỉ thị, chỉ đọc cho hết cũng phải vài ngày. Tôi nghĩ: phức tạp như thế, tránh sao khỏi sơ hở dễ bị lợi dụng, tham nhũng! Mà thực tế đâu có gì khó hiểu: đồng lương cơ bản quá thấp thì phải bịa ra nhiều khoản phụ cấp, trợ cấp, thù lao, nhằm tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho cán bộ, giáo viên, làm ngơ cho họ dạy thêm, dạy liên kết, dạy sô, luyện thi tràn lan, chưa kể nhiều loại hoạt động có bồi dưỡng, có phong bì (hội họp, kỷ niệm, viết báo cáo, tham luận…). Rốt cục, hầu hết mọi người biết xoay xở chút ít đều có mức thu nhập tương đối. Vậy có nghĩa là ngân sách, cộng với phần đóng góp của dân, hoàn toàn không thiếu để trả lương đường hoàng, nếu phân phối công bằng và hợp lý. Chẳng qua ta chỉ dùng một phần nhỏ để trả lương cơ bản, còn lại thì phân phối tuỳ tiện, không hiệu quả, lại tạo nhiều sơ hở cho kẻ xấu lợi dụng và đục khoét. Đó là thực tế trong ngành giáo dục. Tình hình ở các ngành khác cũng tương tự, có khi còn tệ hơn. Như trong khoa học thì cơ chế lương này đẻ ra một chế độ cấp phát kinh phí cho các nghiên cứu khoa học rất đặc biệt Việt Nam. Ở các nước, tiền lương của nhà khoa học đảm bảo cho họ không phải lo chuyện mưu sinh, còn kinh phí cấp cho các đề tài nghiên cứu chỉ được phép dùng để trang trải các chi phí về phương tiện nghiên cứu (như trang thiết bị), chứ không được trích ra để bổ sung thu nhập cá nhân. Như vậy, người ta xin cấp kinh phí nghiên cứu là để có phương tịên nghiên cứu chứ không phải để tăng thu nhập. Ở ta thì trái lại, do tiền lương quá thấp, cho nên kinh phí cấp cho một đề tài nghiên cứu được phép trích ra một tỉ lệ đáng kể (trung bình khoảng 30-50%) để “trả công” cho các nhà khoa học tham gia đề tài. Có nghĩa là anh “chạy” được một đề tài với kinh phí càng lớn thì thu nhập của anh càng cao, có thể gấp nhiều lần tiền lương. Đã thế mà việc xét duyệt và nghiệm thu đều thiếu nghiêm túc, đề tài gì cũng là công trình khoa học, và khi đã được dụyệt thì phần lớn đều được nghiệm thu “xuất sắc”. Nhiều người muốn biết: sau khi trừ đi kinh phí cho những đề tài cấp Nhà nước như vậy thì các đề tài khoa học chuyên nghiệp còn được bao nhiêu kinh phí để nghiên cứu? Tin này cũng làm nhớ lại cách đây vài tháng dư luận đã từng sôi nổi về chuyện một cơ quan nọ khi làm kế hoạch đón nhận huân chương đã dự chi phong bì đủ cỡ nặng nhẹ cho các quan khách tới dự, từ Bộ trưởng trở xuống. Thảo nào mấy năm nay nước ta được mùa bội thu huân chương các loại ! Đúng là tham nhũng có thiên hình vạn trạng nấp dưới một cơ chế hợp pháp. Giá còn Bác Hồ, không hiểu Bác sẽ nghĩ gì khi cảnh tượng đó diễn ra trên đất nước đã độc lập thống nhất 30 năm rồi.

Nhiều người bảo ngay ở một số nước tiên tiến tham nhũng cũng đầy rẫy. Đúng thế, nhưng ở các nước ấy tham nhũng dù sao cũng chỉ hạn chế ở một số nhân vật cấp cao của chính quyền nên người dân ít bị nhũng nhiễu. Còn ở ta thì tham nhũng hoành hành khắp ngõ ngách, từ anh cảnh sát giao thông nhận tiền mãi lộ đến những cán bộ, nhân viên làm việc ở xã, phường vòi tiền “bồi dưỡng” của người dân để làm một số việc trong trách nhiệm thường ngày của họ. Tuy nhiên cần thấy rõ: nếu suy xét công bằng thì trong các hành vi phạm pháp đó chỉ 1/10000 là phạm tội. Còn lại, người ta phạm pháp chẳng qua vì cơ chế đẩy họ tới chỗ không làm thế không sống được!

Cảnh sát giao thông, cán bộ cấp xã phường… lương có khi chỉ đủ ăn trưa, như các vị lãnh đạo đã thừa nhận. Vì vậy, nếu có kẻ trong số họ tìm cách xoay xở để kiếm đủ sống thì về mặt đạo đức khó có thể lên án hành vi ấy. Cũng như việc giáo viên phải dạy thêm giờ để kiếm sống. Tuy tôi phản đối dạy thêm tràn lan vì việc đó có hại, nhưng xét về mặt đạo đức, lương không đủ sống mà cấm người ta dạy thêm là vô trách nhiệm.

Đấu tranh nội bộ là không khả thi

Điều nguy hiểm chính là ở chỗ ấy: cán bộ cấp dưới nếu có phạm pháp ít nhiều để sống thì cấp trên phải thông cảm, phải làm ngơ. Song tâm lý con người là rất ít ai chịu dừng ở mức đủ sống, mà đi xa hơn, ngày càng xa, dẫn đến phạm tội. Còn cấp trên thì sao? Lương tuy có khá hơn, nhưng vẫn quá thấp so với nhu cầu, nên cũng phải xoay xở, và vì đám này nhiều quyền lực nên phạm vi, quy mô tham nhũng lớn, không phải chỉ kiếm thêm vài triệu/tháng như cấp dưới, mà phải 5-7 triệu, hàng chục, hàng trăm triệu. Hành vi tham nhũng của họ, công chức dưới quyền dù có biết cũng ít dám đấu tranh vì bản thân cấp dưới cũng tự biết chính mình đâu có trong sạch được 100%, giá thử có muốn đấu tranh thì chưa biết chừng kẻ bị trừng trị trước hết là chính mình chứ không phải sếp. Cho nên cấp dưới trở thành vỏ bọc che chắn cho cấp trên, rồi cấp trên lại che chắn cho cấp trên cao nữa, cứ thế tham nhũng đi dần từ dưới lên, từ cơ sở lên đến trung ương, càng lên cao tham nhũng càng tinh vi. Đến mức là trong nhiều cơ quan, ai đứng ngoài hệ thống tham nhũng sớm muộn đều bị đánh bật ra khỏi cơ quan.

Và chính vì thế mà biện pháp đấu tranh nội bộ nêu ra trong dự thảo Luật phòng chống tham nhũng chỉ là lý thuyết, chứ không thực tế. Khi tham nhũng đã tràn lan, có tính tập thể, đi từ dưới lên trên, rộng khắp, có vỏ bọc bảo vệ chắc chắn như trên đã phân tích, thì đấu tranh nội bộ không thể bảo đảm an toàn. Đó là lý do giải thích tại sao phần lớn các vụ tham nhũng đều do quần chúng, công luận đấu tranh phát hiện, chứ it khi bị tố cáo từ trong nội bộ cơ quan.

Phải cải cách chế độ tiền lương

Thành thử, nếu chúng ta còn duy trì chế độ lương phi lý như hiện nay thì không có cách nào chống tham nhũng có hiệu quả. Chúng ta đều thấy, với chế độ tiền lương hiện nay, khi không một ai có thể sống bằng lương được cả, thì tham nhũng tràn lan, khó huy động toàn xã hội chống tham nhũng được. Trung ương có lẽ đã thấy điều đó, nên đã có nghị quyết phải giải quyết vấn đề tiền lương một cách cơ bản. Vậy mà sau năm năm nghiên cứu và tiêu tốn không ít tiền của, công sức, các Bộ Tài chính và Nội vụ mới đưa ra được một đề án cải cách tiền lương tốt đến mức … mới bắt đầu thực hiện đã phá sản hoàn toàn. Và cho đến nay, sau các kiểu điều chỉnh lương, phụ cấp linh tinh, vẫn chưa ai được tăng một đồng lương thực tế nào cả. Tiền lương cơ bản, theo giá trị mới của đồng tiền, không hề thay đổi. Cái cơ chế trả lương từng đẩy nhiều người đến hành vi sai trái mới có thể sống được vẫn giữ gần nguyên.

Nếu mục tiêu cải cách tiền lương chỉ là tăng lương cơ bản cho đủ sống (chứ không động gì đến cơ chế phân phối lương và thu nhập phụ ngoài lương), như các Bộ phụ trách đã quan niệm, thì bất cứ ai cũng thừa hiểu đó là mục tiêu phi thực tế, đâu cần các vị phải mất công giải thích rằng chỉ tăng 10 nghìn đồng/tháng thôi cho mỗi công chức, cán bộ cũng đã vượt quá khả năng của ngân sách !

Từ bao lâu nay, nói đến tiền lương còn ai lạ gì cái nghịch lý sờ sờ : người nào cũng kêu lương thấp nhưng ai cũng sống đàng hoàng ! Vậy mấu chốt là phải xoá bỏ cái nghịch lý ấy chứ, tức là phải sửa cơ chế trả lương để sao cho ngoài lương chính thức ra, đại đa số công chức cán bộ không còn có thêm khoản thù lao, phụ cấp, nào khác từ ngân sách và tiền đóng góp của dân hay tiền dự án vay quốc tế. Các khoản này đều phải chỉnh đốn lại và tính gộp hết vào tiền lương chính thức cho công bằng, để các hoạt động trước đây được thù lao dưới hình thức tuỳ tiện nay đều được tính trong nhiệm vụ của người hưởng lương. Nếu làm như vậy thì với khả năng ngân sách hiện tại, theo tính toán cụ thể trong một ngành như giáo dục, lương vẫn có thể đảm bảo mức sống phù hợp năng suất lao động từng người, giúp cho mỗi người không phải lo toan xoay xở chật vật, nhiều khi phạm pháp, để mưu sinh, mà có điều kiện dồn tâm trí vào nhiệm vụ chính của mình và dành thì giờ chăm sóc gia đình, con cái.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, chúng ta không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. Muốn phòng, chống tham nhũng một cách triệt để thì phải cải cách tiền lương, tạo lập sự công bằng. Khi đó, nếu ai còn tìm cách xoáy thêm tiền nhà nước, móc thêm túi người dân thì không còn lý do gì bào chữa, cả về đạo đức cũng như pháp lý. Bọn quan chức tham nhũng sẽ mất đi cái vỏ bọc lâu nay vẫn che chắn chúng, cấp dưới, người dân sẽ không còn bị khống chế, cuộc đấu tranh chống tham nhũng do đó sẽ dễ dàng hơn.

Nhìn ra thế giới, những nước nào mà công chức phải xoay xở thêm mới đủ sống đều có tình trạng tham nhũng nặng nề. Rất tiếc là Dự thảo Luật phòng, chống tham nhũng chưa chú ý đầy đủ kinh nghiệm đó. Đương nhiên không phải chỉ thực hiện chính sách tiền lương đúng đắn thì tham nhũng sẽ hết. Nhưng có thể khẳng định, chừng nào còn duy trì chính sách tiền lương bất cập thì cuộc chiến chống tham nhũng còn gay go.

Năm 1978, trong một dịp cố Tổng Bí thư Lê Duẩn hỏi ý kiến một số nhà khoa học về vấn đề chống tiêu cực, tôi đã có phát biểu đại ý như trên. Năm 1995, tôi cũng đã xin nhắc lại ý kiến đó với cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng và theo lời khuyên của cố Thủ tướng tôi cũng đã trình bày trực tiếp ý kiến đó với Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch Trần Đức Lương, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, và sau này với nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu. Đến bây giờ, sau ba thập kỷ chống tham nhũng chưa đạt hiệu quả, tôi vẫn tin rằng nếu không triệt được mầm mống tham nhũng từ trong cơ chế thì chưa có cách nào kiểm soát được cái quốc nạn này.

---

Bản lĩnh lãnh đạo

Hoàng Tụy

Nguồn: viet-studies.info

Kichbu cập nhật ngày 21.09.2011

 

Cuối kỳ họp đầu tiên Quốc Hội khoá XIII nhiều vị lãnh đạo sau khi được bầu vào các chức vụ cao nhất  đã long trọng hứa sẽ lắng nghe ý kiến, nguyện vọng người dân.  Lời hứa đó nên được coi như lời thề, vì lịch sử cho thấy thời nào mà lãnh đạo biết gần dân, nghe dân, thì dù đất nước khó khăn đến mấy dân cũng không mất niềm tin. Mà còn niềm tin thì còn tất cả, khó khăn sẽ được khắc phục, đất nước sẽ vững bước đi lên.

Trong cuộc gặp mặt hồi tháng trước của Tổng Bí Thư với Liên hiệp KHKT đã có nhiều trí thức bày tỏ những ưu tư, trăn trở trước hiện tình đất nước đang trải qua những giờ phút nghiêm trọng như cách đây ba mươi năm. Vì không có cơ hội tham gia buổi gặp mặt, tôi xin góp  câu chuyện sau để hưởng ứng cuộc trao đổi ý kiến đáng nhớ đó.

Chúng ta đều biết, trong quá trình hoạt động cách mạng, Đảng đã giành được những thắng lợi vẻ vang, đồng thời cũng đã có lúc phạm sai lầm lớn. Đặc biệt, những sai lầm trong khoảng  mười năm sau thống nhất đất nước đã khiến lòng tin của dân đối với Đảng sa sút trầm trọng.

Nhưng ngay cả trong thời kỳ đen tối ấy tôi vẫn giữ được niềm tinĐó là nhờ giữa lúc bế tắc đó, tôi đã được may mắn nhìn thấy ở các lãnh tụ Đảng một tinh thần thật sự cầu thị, bình tĩnh tiếp thu ngay cả những ý kiến mà thoạt nghe tưởng như rất khó chấp nhận.

        Số là khoảng tháng 5-6 năm 1979,  tôi cùng với 4 anh em trí thức khác được Tổng Bí Thư Lê  Duẩn mời xuống Đồ Sơn gặp để trao đổi ý kiến về tình hình kinh tế xã hội. Kế hoạch trù định làm việc trong 2 tuần nhưng nửa chừng phải dừng lại để về Hà Nội vì có tin Phó Chủ Tịch Nguyễn Lương Bằng vừa mất.      

       Trong mấy ngày đó chúng tôi đã có điều kiện góp ý trực tiếp và thẳng thắn với TBT. Phát biểu đầu tiên tôi nêu thắc mắc: cùng với nhiều anh em khoa học, tôi đã cố gắng tìm hiểu nhưng vẫn chưa hiểu lý luận làm chủ tập thể là thế nào.  Sau khi được TBT giải thích kỹ càng, tôi thưa lại: tất cả sự giải thich ấy tôi đã được nghe trong nhiều cuộc thảo luận chính trị, song tôi vẫn băn khoăn một điều cơ bản: ta nói làm chủ tập thể là hình thức dân chủ cao hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong lúc đó ngay dân chủ tư sản ta cũng chưa đạt được. Và để dẫn chứng tôi nêu ra nhiều việc và đọc lên cho TBT nghe mấy câu truyền miệng mà hồi đó khá phổ biến ở vỉa hè Hà Nội: năng làm thì đói, biết nói thì no, biết bò thì sướng, càng bướng càng khổ. Hồi ấy lý luận làm chủ tập thể được coi là cơ sở lý luận và điểm mấu chôt trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, một sáng tạo lớn của Đảng, cho nên tôi hiểu rằng tôi đã chạm một điểm nóng, cực nóng, chưa biết rồi sẽ gặp phản ứng gì.

       Hôm sau, TBT nêu câu hỏi: làm thế nào chống tiêu cực (hồi ấy tiêu cực là từ dành để nói tham nhũng). Tôi đáp: với cách quản lý kinh tế như ta, không thể chống tiêu cực được. Bởi  công chức cán bộ lương quá thấp, không sống nổi thì họ phải xoay xở mọi cách để sống và khi xoay xở tất nhiên không tránh được tiêu cực. Bắt đầu là tầng lớp cán bộ công chức cấp thấp nhất, rồi leo dần lên cấp cao hơn vì kinh tế càng khó khăn thì cấp cao hơn cũng dần dần không sống nổi bằng lương. Cứ thế tiêu cực sẽ đi từ cấp thấp nhất lên cấp cao dần. Có thể lúc bấy giờ tiêu cực chỉ mới lên tới cấp trung gian – cái cấp mà, như người dân mô tả, “trung ít gian nhiều” – nhưng nguy hiểm là một khi tiêu cực đã bắt đầu có chút lý do dựa vào cuộc sống để được dung thứ, thì nó sẽ phát triển không biên giới, và lây dần sang cả những cán bộ công chức mà hành vi tiêu cực hoàn toàn không thể biện minh bằng lý do cuộc sống. Không ai có thể cưỡng lại cái quy luật đó, cũng không ai dám chắc với cơ chế này tiêu cực sẽ dừng lại ở cấp nào. Nói cách khác, tiêu cực, tham nhũng gắn liền với cách quản lý, nó là một khuyết tật hệ thống của cơ chế quản lý. Vậy vấn đề là phải thay đổi cơ chế quản lý thì mới chống được tiêu cực, mới chống được tham nhũng.

        Một hôm khác TBT nêu băn khoăn: ta có nhiều đơn vị tiên tiến: Duyên Hải, Đại Phong, rồi Vũ Thắng, v.v… tại sao không nhân lên nổi ? tại sao phong trào thi đua cứ đi xuống dần, cứ nhạt dần ? Tôi thưa lại: lấy ví dụ hợp tác xã Vũ Thắng là đơn vị tiên tiến trong nông nghiệp, hàng năm được Nhà Nước cấp không 1000 tấn than, lại còn bao nhiêu ưu ái khác về cán bộ, v.v…, nếu nhân lên thì cả nước lấy đâu ra đủ than, đủ cán bộ tốt, v.v.. cấp cho mọi hợp tác xã ? Theo tôi, cách quản lý kinh tế như vậy chỉ có TQ và ta làm, mà cả hai đều thất bại. Còn về thi đua thì phải thấy rằng ở LX phong trào stakhanovit có thể thành công vì đó là thi đua giữa công nhân nhà máy, ở đó  năng suất lao động từng người có thế đánh giá bằng những số liệu khách quan. Nếu áp dụng cho các ngành khác, ví dụ giáo dục, thì làm gì có những số liệu khách quan như thế, cho nên thi đua sớm muộn sẽ dẫn đến báo cáo thành tích giả tạo (chẳng hạn, nếu lấy tiêu chí thi đua là ít học sinh bị đúp lớp thì chắc chắn mau chóng sẽ không còn  học sinh bị đúp nhưng không vì thế mà chất lượng giáo dục tăng lên, trái lại). Cho nên ở LX ngay từ 1935 đã có chỉ thị của Hội đồng Bộ trưởng bãi bỏ thi đua trong giáo dục. Tại sao ta không rút kinh nghiệm việc ấy mà cứ máy móc áp dụng thi đua trong mọi ngành ?  Trong kháng chiến khi tinh thần yêu nước, hy sinh chịu đựng rất cao, hơn nữa thành tích thi đua không gắn liền với quyền lợi vật chất thiết thực thì thi đua ít bị méo mó, còn ngày nay, khi lợi ích vật chất ngày càng lấn át lợi ích tinh thần, thì thi đua trong nhiều ngành rất dễ trở thành không lành mạnh. Vì vậy tôi đề nghị nên xem lại việc mở rộng máy móc thi đua trong mọi ngành, đặc biệt trong giáo dục.

        Ngoài ra dĩ nhiên chúng tôi còn góp nhiều ý kiến khác, xung quanh việc coi trọng lợi ích vật chất, mở rông quyền tự chủ của các xí nghiệp, bãi bỏ ngăn sống cấm chợ, v.v…. Thậm chí khi bàn về chính sách nông nghiệp có người đã không ngần ngại chỉ rõ: chính sách của Đảng đã bần cùng hoá nông dân. Tóm lại, thật sự đã có không khí nói thẳng nói thật trong mấy ngày đó.

       Điều bất ngờ với chúng tôi là trước những ý kiến gai góc mà trước đó lãnh đạo chưa từng nghe bao giờ, TBT dù rất buồn vẫn không tỏ ý bực dọc mà vẫn bình tĩnh, đĩnh đạc cùng chúng tôi trao đổi, thảo luận trong không khí cởi mở, thân thiện.

       Sau đó một thời gian ngắn có Hội nghị TƯ thứ 6. Vào lúc đó tôi chuẩn bị đi Canada. Ngay trước ngày lên đường, tôi được Thủ Tướng Phạm Văn Đồng  mời cơm và căn dặn mấy điều nhờ tôi nhắn nhủ với anh chị em trí thức Việt kiều. Thủ Tướng cho biết: những ý kiến các anh góp vừa qua ở Đồ Sơn rất tốt, kỳ này chúng ta sẽ chuyển hướng mạnh. Về sau tôi được biết Hội nghị TƯ 6 đã có nghị quyết lịch sử, với nhiều thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức và chủ trương.  Bỏ ngăn sông cấm chợ, nhân dân được tự do làm ăn hơn, lợi ích vật chất được coi trọng hơn, không còn xây dựng các điển hình tiên tiến theo kiểu hợp tác xã Vũ Thắng, và chuyện thi đua trong giáo dục cũng dần dần lui vào quá khứ (mãi gần đây mới được dựng lại do sự trổi dậy của tư tưởng thành tích, gây ra gian dối, quan liêu, tiêu cực mà người ta vẫn muốn nhắm mắt làm ngơ).

        Theo tôi tư duy đổi mới đã thật sự hình thành từ Hội nghị TƯ 6, tuy chưa quyết liệt và còn phải vất vả mấy năm nữa mới trở thành đường lối đổi mới chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội mà nhờ đó chúng ta đã vượt qua được khủng hoảng gay gắt những năm 80.

        Kể lại câu chuyện trên tôi muốn nói rằng ngay khi khó khăn nhất, nếu lãnh đạo chịu khó lắng nghe những tiếng nói tâm huyết ngược với lời ca tụng thông thường thì không những lấy lại được niềm tin mà còn tìm ra được lối thoát. Còn như cứ thich nghe những lời tán tụng đường mật thì đó chính là con đường dẫn tới huỷ hoại niềm tin, mà mất niềm tin thì mất hết, đúng như nguyên Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết đã cảnh báo.

Điều làm tôi xót xa là cái thái độ thật sự cầu thị của các lãnh đạo  ngày nào dường như ngày càng hiếm thấy trong bộ máy quyền lực. Không chỉ ở cấp lãnh đạo cao nhất mà ngay trong từng ngành, đã có biết bao ý kiến, đề nghị tâm huyết của trí thức am hiểu đã bị bỏ qua mà cái giá phải trả ngày càng lộ rõ.

       Trong khi đó tệ nạn tiêu cực, tham nhũng đã diễn biến đúng như  dự báo, nghĩa là từ cấp thấp nhất đã leo dần lên mọi cấp và lan ra toàn xã hội. Đến mức mà khi  kỷ niệm ngày sinh thứ 90,  Cố vấn Phạm Văn Đồng đã phải thốt ra: căn nhà của chúng ta quá nhiều rác rưởi dơ bẩn, phải quét sạch đi thì sự nghiệp cách mạng mới có thể thành công. Từ đó đến nay, rác rưởi chỉ tăng lên, ngập dần cả những tầng cao. Thật chua xót.

        Đã qua hơn một phần ba thế kỷ từ ngày thống nhất đất nước mà trước mắt vẫn còn đó các vấn đề hệ trọng sống còn, với những khó khăn, thách thức có phần, có mặt phức tạp gay gắt hơn.

Nhưng cũng thật kỳ diệu: ngày nay trong giới trí thức và các tầng lớp nhân dân những tấm lòng yêu nước, yêu dân, những ý kiến xác đáng, những việc làm đẹp đẽ vì Tổ Quốc thân yêu ngày càng  nhiều và dễ thấy, miễn là chịu nhìn, chịu thấy, chịu lắng nghe. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.

---

Lưu ý:

1- Bài gốc, chưa bị kiểm duyệt của GS Hoàng Tụy Bản lĩnh lãnh đạo – (viet-studies). Bài trên Tia Sáng đã qua kiểm duyệt.

 

2- Một "phiên bản" của bài này đã đuợc đăng trên báo Tía Sáng ngày 19-9-2011
http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=4383

Những đoạn in chữ đậm, nghiêng (và tô vàng) là những đoạn trong bản gốc được viết chữ nghiêng để nhấn nhưng trong bài đăng đã sửa lại chữ đứng, còn những đoạn in đậm (và tô xanh) là những đoạn đã bị sửa lại cho nhẹ hoặc xoá hẳn

5 nhận xét:

  1. CNXH có nhiều điểm chưa khoa học, nhiều điểm tiêu cực, ... nhưng CNTB đã có rất nhiều điều chỉnh, thay đổi, vì ảnh hưởng của CNXH. Có lẽ cần nhiều hơn là sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, để tham nhũng được chữa trị hiệu quả. :))

    Trả lờiXóa
  2. Kichbu sưu tầm hai bài của giáo sư Hoàng Tụy hay quá !

    Trả lờiXóa
  3. Lấy bài của GS Hoàng Tụy cho nó an toàn cái thân còm của mình..:)

    Trả lờiXóa

Steps


Flag Counter