Trịnh
Thái Bằng
Nguồn:
tienphong.vn
Kichbu
posted on 04.03.2013
TPO - Vào năm 1979, Liên Xô đã khẳng định kiên quyết
với những thế lực đầy tham vọng: Quân đội và nhân dân Xô Viết sẵn sàng sử dụng
các giải pháp cuối cùng để thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình với Việt Nam.
Trong
rất nhiều trường hợp khác nhau, các nước phải tiến hành nhưng hoạt động quân sự
nhằm giải quyết những vấn đề xung đột chính trị mà các biện pháp ngoại giao
thông thường không thể giải quyết vấn đề. Nhưng trong lịch sử đấu tranh, có rất
nhiều những tình huống mà những xung đột căng thẳng giữa các nước trên thế giới
có thể được giải quyết bằng phương pháp phô diễn sức mạnh quân sự và khả năng
sẵn sàng sử dụng sức mạnh đó.
Hơn
một lần Liên bang Xô Viết đã sử dụng khả năng biểu dương sức mạnh quân sự để
ngăn chặn những thảm họa chiến tranh. Một trong những tình huống đó là năm
1979, Kremlin đã có những hành động quyết liệt biểu dương sức mạnh của các lực
lượng vũ trang và khả năng sẵn sàng sử dụng sức mạn đó để giải quyết những mâu
thuẫn chính trị. Và chính sự quyết liệt đó đã ngăn chặn một cuộc chiến tranh
lớn ở khu vực Đông Nam Á. Tiền Phong trân trọng giới
thiệu bài viết này.
Diễn tập bắn đạn thật – là những hoạt động huấn luyện
chiến đấu của các lực lượng vũ trang các nước với mục đích làm tăng khả năng
sẵn sàng chiến đấu, khả năng điều hành tác chiến và liên kết phối hợp, đồng
thời cũng kiểm tra thử nghiệm vũ khí trang bị phương tiện chiến tranh trên
chiến trường. Nhưng trên thực tế diễn tập có bắn đạn thật là biểu dương sức
mạnh quân sự nhằm mục đích răn đe, ngăn chặn hoặc thể hiện khả năng sẵn sàng
chiến đấu của lực lượng vũ trang. Đồng thời, diễn tập cũng là phương thức nhằm
đưa các đơn vị quân đội vào trạng thái sẵn sàng tiến hành một cuộc chiến tranh.
Một trong những yếu tố nhanh chóng làm tỉnh lại những
nhà chính khách đã mê muội bởi tham vọng chính trị, với sự tự tin thái quá về
khả năng của mình, đó là cho họ thấy được sức mạnh quân sự mà trong trường hợp
họ vẫn không tự nhìn nhận lại tình huống, họ sẽ phải đối đầu trực diện. Thực
hiện được điều đó thì phô diễn sức mạnh quân sự phải thật sự hiệu quả.
Kinh nghiệm phô diễn sức mạnh quân sự nhằm đạt được
mục đích chính trị, thông thường nước Mỹ hay nghiên cứu và áp dụng vào thực
tiễn. Nhưng trong thực tế đấu tranh trên thế giới, Liên bang Xô viết vào năm
1979 đã triển khai sức mạnh quân sự của mình một cách quyết liệt và hiệu quả,
khiến cho một cường quốc trên thế giới như Trung Quốc buộc phải chùn tay, còn
cả thế giới nín thở với sự khủng khiếp chờ đợi ngày “D”.
Xung
đột biên giới năm 1979
Sau khi quân tình nguyện Việt Nam cùng với
các lực lượng yêu nước Campuchia tiến hành các chiến dịch quân sự chống lại lực
lượng quân sự Khơ me Đỏ và chính quyền Pol Pot. Sức ép mọi mặt lên nhà nước
Việt Nam
ngày càng tăng cả về ngoại giao, kinh tế, quân sự...
Trên tuyến biên giới phía bắc Việt Nam, lực lượng
đối phương đã triển khai một tập đoàn quân: Thê đội một 15 sư đoàn bộ binh, thê
đội 2 – 6 sư đoàn dã chiến. Dự bị chiến dịch có 3 sư đoàn. Tổng thể cụm quân
lực triển khai các hoạt động tác chiến trên biên giới có thể tăng cường đến 29
sư đoàn. Rạng sáng ngày 17 tháng 2, đội quân khổng lồ này ồ ạt tấn công trên
toàn tuyến...
Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 (theo
cách gọi của người Việt Nam)
chính thức nổ ra...
Năm 1979. Các trung đoàn máy bay chiến đấu từ lãnh thổ của Ucraina và Belarussia cơ động di chuyển đến sân bay của Mông cổ. Ảnh: Cơ sở dữ liệu “VKO” Matxcova
Liên bang Xô Viết quyết định thực hiện sứ mệnh vô cùng
khó khăn trong điều kiện tình huống phức tạp và nguy cơ bùng nổ chiến tranh
trên diện rộng – thiết lập lại sự công bằng và hòa bình trên bán đảo Đông Dương
bằng phương pháp biểu dương sức mạnh quân sự. Nhưng với những cái đầu nóng, thực
hiện giải pháp nửa vời và không quyết liệt là không thể, mà còn thúc đẩy quốc
gia mang tư tưởng nước lớn muốn 'dạy một bài học' cho nước khác tiến hành cuộc
chiến tranh ác liệt hơn. Matxcơva đã quyết định hành động rất cứng rắn và quyết
liệt ngay từ ban đầu.
Cuộc diễn tập lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới
Các hoạt động biểu dương sức mạnh và ý chí được quyết
định vào đầu tháng 3 năm 1979. Trong giai đoạn từ ngày 12 đến ngày 26 tháng 3 (
với mục đích tạo áp lực quân sự lên Trung Quốc do những hành động gây chiến
chống lại nước láng giềng) theo quyết định của Ban chấp hành Trung ương Đảng
cộng sản Liên xô, trên tất cả các quân khu vùng biên giới phía Đông, trên lãnh
thổ Mông Cổ và trên biển Thái bình dương tiến hành cuộc diễn tập hiệp đồng quân
binh chủng và diễn tập hải quân có sử dụng đạn thật.
Trong cuộc diễn tập lớn nhất trong lịch sử quân sự có
sử dụng lực lượng của 20 sư đoàn binh chủng hợp thành và không quân. Quân số
tham gia diễn tập lên đến 200 nghìn quân nhân, 2600 xe tăng, 900 máy bay và 80
chiến hạm. Cuộc diễn tập bắt đầu từ thời điểm động viên lực lượng và đưa các
đơn vị thường trực chiến đấu từ thường xuyên lên toàn bộ. Từ lực lượng dự bị
động viên điều động 52 nghìn quân nhân dự bị động viên hạng 1, động viên từ các
cở sở thuộc ngành Nông nghiệp hơn 5 nghìn xe ô tô các loại.
Những đợt diễn tập lớn nhất được thực hiện tại Mông
Cổ, trong diễn tập có sự tham gia của 6 sư đoàn BBCG và Tăng thiết giáp, 3
trong số các đơn vị được điều động từ Siberia
và Zabaikalia. Ngoài ra trên lãnh thổ Mông Cổ tham gia diễn tập có 2 lữ đoàn, 3
sư đoàn không quân chiến trường, các đơn vị và phân đội đặc chủng tăng cường.
Ngoài ra, cũng trong giai đoạn đó, đồng thời tiến hành
các hoạt động diễn tập thực binh của các lực lượng trên vùng Viến đông và Đông Kazakhstan, có
sự tham gia của các đơn vị binh chủng hợp thành và các đơn vị không quân, phối
hợp với lực lượng Biên phòng.
Trong tiến trình diễn tập đã thực hiện nội dung liên
kết phối hợp giữa các lực lượng. Các đơn vị và phân đội trong điều kiện khí hậu
và môi trường khắc nghiệt đã tiến hành cơ động trên khoảng cách rộng lớn, từ Siberia đến Mông Cổ (hơn 2000 km).
Các đơn vị được tổ chức biên chế thành đơn vị chiến
đấu ngay trên tầu hỏa, được vận chuyển bằng đường không. Cụ thể, sư đoàn ĐBĐK
từ Tula được vận chuyển vào khu vực Chita trên quãng đường dài 5,5 nghìn km
bằng máy bay vận tải quân sự một đợt bay trong thời gian 2 ngày. Các trung đoàn
máy bay chiến đấu từ lãnh thổ của Ucraina và Belarusia được cơ động trực tiếp
đường không đến các sân bay của Mông cổ.
Trên những khu vực biên giới với Trung Quốc, các đơn
vị phòng thủ biên giới triển khai phác thảo các kế hoạch tổ chức phòng ngự,
đánh chặn các đòn tấn công xâm phạm khu vực biên giới, kế hoạch phản kích các
đòn tấn công và kế hoạch phản công.
Trên các vùng biển phía Đông và Nam Trung Quốc có gần
50 chiến hạm của hạm đội Thái Bình dương, trong đó có 6 tầu ngầm, tiến hành các
hoạt động sẵn sàng chiến đấu và đồng loạt triển khai diễn tập các hoạt động tác
chiến nhằm tiêu diệt lực lượng hải quân đối phương. Riêng vùng biển Primorie
tiến hành diễn tập đổ bộ đường biển.
Trên các vùng biển phía Đông và Nam Trung Quốc có gần 50 chiến hạm của hạm đội Thái Bình dương, trong đó có 6 tầu ngầm đang thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.
Một trong những mối quan tâm đặc biệt là kinh nghiệm
triển khai các cụm quân công kích chủ lực của Lực lượng Không quân trên biên
giới với Trung Quốc, do đặc thù có ưu thế vượt trội về không quân, như một
phương tiện tác chiến tầm xa, “phi tiếp xúc”. Trong giai đoạn ngày nay sẽ là
yếu tố quan trọng làm nguội đi những cái đầu nóng của người láng giềng đầy tham
vọng mà không tự lượng sức mình.
Theo các kế hoạch diễn tập, đã tiến hành tổ chức biên
chế các cụm chủ lực hàng không công kích của các trung đoàn không quân trên các
quân khu gần biên giới Trung Quốc. Các tập đoàn máy bay chiến đấu chuyển sang
vị trí đóng quân cố định trong khu vực miền Đông, không chỉ là từ các quân khu
lân cận, mà cả từ Pricarpathian trên quãng đường bay dài tới 7000km trong vòng
hai ngày.
Vấn đề không phải là vài chục chiếc máy bay chiến đấu,
được rút ra từ các phân đội bay sẵn sàng chiến đấu thường xuyên, mà là các
trung đoàn bay đầy đủ theo biên chế. Cùng với các máy bay chiến đấu, các máy
bay vận tải vận chuyển luôn cả các đơn vị hậu cần kỹ thuật, các trang thiết bị,
kỹ thuật dự trữ và cơ sở vật chất dự phòng theo biên chế.
Có những thời điểm trên không trung cùng lúc bay hàng
chục trung đoàn không quân chiến trường. Ngay sau khi các đơn vị không quân hạ
cánh, các đơn vị và phân đội không quân lập tức nhận nhiệm vụ và triển khai
tham gia huấn luyện diễn tập. Trong quá trình tiến hành các hoạt động chuyển
quân và diễn tập chiến đấu tiến công, các kíp lái đã cơ động hơn 5000h, sử dụng
hơn 1000 quả bom và tên lửa.
Một khối lượng khổng lồ vũ khí trang bị, phương tiện
chiến đấu, cơ sở vật chất, vận chuyển từ Liên bang Xô viết, đã giải quyết toàn
bộ vấn đề về trinh sát đường không của địch trên lãnh thổ Việt Nam. Một bộ phận
không quân đảm bảo vận tải trên lãnh thổ Việt Nam. Thành quả và khối lượng không
thể tưởng tượng được của hàng không vận tải quân sự đã thực hiện trên cầu hàng
không được thiết lập giữa Liên bang Xô Viết và Việt Nam.
Trong khuôn khổ chương trình diễn tập và vận chuyển
khí tài chiến đấu trong không đầy một tháng đã tiến hành cơ động 20 nghìn quân
nhân của lực lượng vũ trang Việt Nam, hơn 1000 đơn vị (unit) trang thiết bị
chiến đấu, 20 máy bay quân sự và máy bay trực thăng, hơn 3 nghìn tấn vũ khí
trang bị, đạn và cơ sở vật chất phục vụ chiến tranh.
Liên bang Xô viết đã thực hiện sứ mệnh cao cả của
mình, bằng sự giúp đỡ của tinh thần đồng chí, tăng cường sức mạnh quân sự cho
quân đội nhân dân Việt nam bằng giải pháp cung cấp khí tài quân sự. Trong giai
đoạn đầu tiên của cuộc xung đột vũ trang đến tháng 3 năm 1979 theo đường vận
tải biển đã chuyển đến Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe thiết giáp, xe bộ binh cơ
giới, 400 khẩu pháo và súng cối, 50 tổ hợp pháo phản lực Grad BM-21, hơn 100
khẩu pháo phòng không, 400 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai và hàng nghìn tên
lửa, 800 súng chống tăng RPG-7, 20 máy bay tiêm kích.
Ngoài vũ khí trang bị, Liên bang Xô viết còn cung cấp
các hệ thống trang thiết bị đặc chủng và các dây truyền sửa chữa xe máy công
trình phục vụ bảo dưỡng và sửa chữa trang thiết bị, phương tiện chiến tranh.
Tất cả các trang thiết bị, phương tiện chiến tranh và hệ thống sửa chữa, bảo hành
trang thiết bị đi cùng đó đều được chuyển đến trong vòng một tháng. Vũ khí,
trang thiết bị kỹ thuật đều trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu và có thể đưa
vào chiến đấu được ngay. Toàn bộ trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh
được kiểm tra bởi các đoàn kiểm tra kỹ thuật nghiêm khắc nhất, để chuẩn bị đã điều
động các chuyên gia, trong thực tế đã khai thác sử dụng triệt để các trang
thiết bị đó và có kinh nghiệm sâu sắc về khai thác sử dụng.
Như vậy, các phương tiện chiến đấu, từ các phương tiện
vận tải, không cần có sự chuẩn bị bổ sung, có thể đưa thẳng vào chiến trường.
Đây thật sự là một kỳ tích của hệ thống hậu cần, kỹ thuật, vận tải của quân đội
Xô viết cả về tốc độ cung cấp và vận tải trang bị, số lượng vũ khí trang bị,
khả năng sẵn sàng chiến đấu của vũ khí trang bị khi cơ động trên hàng chục ngàn
km đường biển.
Trong thời gian diễn ra cuộc tập trận tổng lực của
quân đội Xô Viết, người Trung Quốc căng thẳng theo dõi mọi diễn biến và có thể
đánh giá được, thật sự họ đang ở trong một tình huống nghiêm trọng như thế nào?
Đến mức họ không dám đưa lực lượng quân đội của họ từ vị trí đóng quân ra biên
giới Xô – Trung.
Ngoài biên giới, các phương tiện thông tin đại chúng
tập trung toàn bộ sự chú ý, theo dõi và đưa ra những phỏng đoán về cuộc diễn
tập quân sự, lớn nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại, diễn ra trong khu vực
châu Á. Các hoạt động diễn ra rất quyết liệt, theo đúng thực tế chiến trường
chứ không hề có cảm giác “tình huống giả định, một bước tiến – hai bước lùi”.
Và áp lực chiến tranh nặng nề đè lên thế lực hiếu chiến, buộc họ phải suy nghĩ
tỉnh táo và kiềm chế tối đa..
Không đạt được những mục tiêu chính trị, tổn thất nặng
nề về binh lực, ngày 5 tháng 3 năm 1979, Bộ máy lãnh đạo nước lớn ở châu Á
quyết định rút quân khỏi lãnh thổ láng giềng. Quyết định đó bị thúc đẩy bởi
hàng loạt các yếu tố chính trị và quân sự, bất ngờ và choáng váng trước sự kiên
cường và sức mạnh của Việt Nam
và một phần có thêm sự ủng hộ kiên quyết của Matxcơva đối với Hà Nội. Liên Xô
yêu cầu ngay lập tức chấm dứt hành động xâm lược vô nhân đạo, khả năng sẵn sàng
tiến hành các hoạt động quân sự mạnh nhất trên khu vực phía Đông; những mâu
thuẫn và bất đồng chính kiến ngay trong nội bộ nhà cầm quyền nước lớn kia; sự
phản ứng mạnh mẽ của thế giới tiến bộ và yêu chuộng hòa bình; sự xuất hiện rõ
nét những điểm yếu trong công tác huấn luyện và tiến hành các chiến dịch, thực
hành các trận đánh của lực lượng sĩ quan chỉ huy quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA); trong biên chế
các loại vũ khí, trang thiết bị hiện đại, phương tiện chiến tranh, khó khăn
nghiêm trọng trong công tác vận tải cơ sở vật chất, hậu cần kỹ thuật.
Trữ lượng dầu, tiêu hao trong thời gian thực hiện các hoạt động diễn tập và giúp đỡ Việt nam, Bộ quốc phòng Liên bang Nga phải phục hồi lại dự trữ trong vòng hai năm.
Các cuộc tấn công chấm dứt từ ngày 20 tháng 3 bắt đầu
rút quân trên toàn bộ các hướng chủ yếu. Cuộc rút lui được che chắn bởi hỏa lực
dữ dội của pháo binh và các cuộc tấn công nghi binh. Trong quá trình rút quân,
PLA sử dụng triệt để hỏa lực ngăn chặn của pháo binh, súng cối, gài mìn trên
các tuyến đường, phá hoại cầu cống, hủy diệt các khu nông trại, hợp tác xã,
làng mạc và khu dân cư.
Cuối tháng 3, Trung Quốc công khai tuyên bố đã rút
hoàn toàn quân đội nhưng cuộc đấu tranh giằng co giữa đôi bên còn kéo dài đến
tận năm 1989 mới chấm dứt.
Các hành động chính trị quân sự quyết liệt của Liên
xô, được thực hiện dưới hình thức chuẩn bị quân sự toàn diện cho cuộc tấn công
vào lãnh thổ Trung Quốc, đã đạt được những kết quả mong muốn về chính trị.
Cuộc diễn tập đã đạt được những mục tiêu quân sự cần
thiết. Sức mạnh quân sự của Liên bang Xô Viết phô diễn trong cuộc tập trận bắn
đạn thật quy mô lớn là một yếu tố đã góp phần chấm dứt những mưu toan nước lớn,
những ý đồ trong vai trò “anh cả” và tham vọng điều khiển châu lục, buộc Trung
Quốc nhìn lại ngay chính lực lượng quân sự của mình và những tham vọng của một
"đại quốc".
Việt Nam
đã tăng cường đáng kể sức mạnh quân sự, đủ để bảo vệ đất nước và đường lối
chính trị độc lập của mình trên trường thế giới.
Quân đội Liên bang Xô viết đã chứng minh được khả năng
sẵn sàng chiến đấu cao nhất, đáp ứng được những yêu cầu tác chiến hiện đại và
sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
(Còn tiếp)
Bài
liên quan:
> Uy
lực chiến hạm tàng hình SIGMA Việt Nam nhắm tới
> Tiết lộ về khủng hoảng suýt gây đại chiến thế giới 3
> Giải mật cuộc chiến biên giới Xô - Trung năm 1969
-----
> Tiết lộ về khủng hoảng suýt gây đại chiến thế giới 3
> Giải mật cuộc chiến biên giới Xô - Trung năm 1969
-----
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét