The United
States Constitution
N.H.T
Kichbu posted on
25.01.2013
Hiến Pháp là văn
kiện cơ bản xác định những quyền dân chủ và bình đẳng của người dân chung sống
trong một Quốc Gia.
Tổng Thống Chế Hoa Kỳ
I - Hiến Pháp Philadelphia
và thể chế Cộng Hoà Liên Bang Hoa Kỳ.
Ai đọc lịch sử
chính trị Hoa kỳ đều phải ngạc nhiên và thán phục, khi nhìn vào Hiến Pháp
Philadelphia, luôn thích nghi với phát triển xã hội Hoa kỳ từ hơn 200 năm nay.
Làm thế nào mà một Hiến Pháp, nền tảng lịch sữ Tổng Thống Chế đầu tiên của một
Quốc Gia không hơn bốn triệu dân , với phần lớn kinh tế dựa vào nông nghiệp,
vẫn có thể còn hiệu lực cho một cường quốc số 1 trên thế giới hiện nay về quân
sự và kinh tế.
Ngày 4.7.1776,
mười ba cựu thuộc địa Anh Quốc ở Bắc Mỹ đồng đứng lên tuyên bố độc lập, chống
lại mẫu quốc Anh Hoàng. Và chỉ một ít tháng sau đó, ngày 15.11.1776, với Những
Điều Khoản về Thỏa Ước Liên Bang( Articles of Confederation), các cựu thuộc địa
đã thỏa thuận với nhau để thành lập một Quốc Gia Liên Bang.
Thỏa ước bắt đầu
có hiệu lực ngày 1.3.1781, sau khi Maryland, tiểu bang cuối cùng của Liên Bang
cũng đồng ý gia nhập, trong lúc cuộc chiến giành độc lập chống lại mẫu quốc vẫn
còn tiếp diển.
Và sau đây là một
vài điều khoản của Thỏa Ước:
- Mỗi Tiểu Bang vẫn
giữ nguyên quyền tối thượng của mình.
- Thành lập Quốc
Hội Liên Bang, mỗi năm nhóm hợp một lần.Mổi Tiểu Bang được quyền tuyển chọn vào
Quốc Hội từ 2-7 đại diện, mặc dầu khi bỏ phiếu mỗi Tiểu bang chỉ được biểu
quyết bằng một lá phiếu thôi.
- Quốc Hội Liên
Bang có quyền trong việc bang giao quốc tế.
- Quyền điều khiển
chiến tranh.
- Quyền thương
thuyết với thổ dân ( Indian).
- Quyền cho các
Tiểu Bang vay nợ, nhưng ngân khoản và lính tráng phải được các Tiểu Bang cung
cấp.
- Quốc Hội không
được quyền định đoạt thuế vụ.
- Không có quyền
điều khiển các dịch vụ thương mãi giữa các Tiểu Bang với nhau.
- Không có quyền
trực tiếp trên dân chúng các Tiểu Bang.
Thỏa Ước không xác
định phương thức để có thể ngăn cản và trừng phạt Tiểu Bang vi phạm các điều
khoản đã ghi trong Thỏa Ước .
Ý thức được những
thiếu sót của Thỏa Ước sơ khởi, ngày 14.5.1787, mười ba Tiểu Bang gởi đại diện
về Philadelphia
để bàn thêm và hoàn chỉnh Thỏa Ước.
Không ngờ ngày
17.9.1787 chính những vị đại diện này đã soạn thảo ra bản Hiến Pháp đầu tiên
của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và cũng là bản Hiến Pháp đầu tiên cho Tổng Thống Chế
thế giới.
Hiến Pháp
Philadelphia bắt đầu có hiệu lực ngày 1.1.1789, sau khi Tiểu Bang thứ 9 của
Liên Bang chấp thuận.Thành viên cuối cùng của Liên Bang là Tiểu Bang Rhode
Island đã ký vào Hiến Pháp Philadelphia năm 1890, trong một phiên hợp đầu tiên
của Quốc Hội.
Hiến Pháp
Philadelphia được thành hình và chấp nhận sau 26 Tu Chính Án để đổi và thêm bớt
cho Hiến Pháp được kiện toàn. Có lẽ nhờ đó mà hơn hai thế kỷ đã trôi qua, bao
nhiêu biến chuyển nội địa của Hoa Kỳ cũng như những diển biến trên chính trường
quốc tế vẫn không làm cho những lý tưởng tiên khởi của những vị sáng lập bị lổi
thời.
Những đặc tính của
Hiến Pháp Phildadelphia.
Hiến Pháp
Philadelphia là Hiến Pháp "cứng rắng", không thể sửa đổi bằng những
thủ tục thông thường, bởi lẽ Hiến Pháp đã tiên liệu những "điều kiện gia
trọng"cần phải được hội đủ thỏa đáng, nếu muốn Hiến Pháp được đem ra sửa
đổi. Và sau đây là các điều kiện gia trọng do điều 5 của Hiến Pháp quyết định:
"Hiến Pháp bị 2/3 tổng số thành viên của Lưởng Viện Quốc Hội đề nghị sửa
đổi và được sự đồng thuận yêu cầu thay đổi bởi các cơ quan lập pháp của ¾ các
Tiểu Bang thành viên của Liên Bang".
"Bị đa số
thành viên của Hội Đồng Quốc Gia ( National Convention) chấp nhận sửa đổi.Hội
Đồng Quốc Gia được triệu tập, nếu có sự yêu cầu của các cơ quan lập pháp của
2/3 các Tiểu Bang thành viên Liên Bang".
" Ngoài ra,
đa số phiếu đồng thuận của Hội Đồng Quốc Gia phải được trên 3/4 các Tiểu bang
chấp thuận". Những điều kiện khó khăn vừa kể, không phải là điều dễ thỏa
đáng để có thể đạp đổ, cắt xén Hiến Pháp tuỳ hứng.
Trong các phiên
hợp trên của Quốc Hội Lập Hiến ( Constitutional Convention) không toan liệu
trên của hiến Pháp Philadelphia, nhiều vấn đề gây cấn và bất đồng giữa các đại
diện được giải quyết bằng những phuơng pháp nhân nhượng, nhưng hai nguyên tắc
nền tảng cho tòa nhà Cộng Hoà Liên Bang Hoa Kỳ không bị một vị đại diện nào
nghi ngờ và phản đối, đó là:
Các quyền hành của
Quốc Gia phải được chia tách và giao cho những cơ quan độc lập nhau.
Thiết lập hệ thống
" Kiểm Soát và Cân Bằng" ( Checks anh Balances) giữa các cơ quan tối
cao của Quốc Gia. Khác với đường lối suy tư và hành động của nhiều Hiến Pháp
Tây Âu, khởi đầu bằng cách đặt nền tảng trên giá trị luân lý hoặc vào niềm tin
tôn giáo, để từ đó rút ra những phương thức hành động mà ngưới cầm quyền phải
có khi hành xử quyền lực của mình đối với dân chúng, những vị soạn thảo Hiến
Pháp Philadelphia, mặc dù vẫn là những tín hữu tôn giáo, họ cũng đặt niềm tin
vào luân lý và đức tin, nhưng họ chủ trương cần phải thực tế. Họ luôn ý thức
rằng bản tính con người lúc nào cũng nghiêng chiều về các hành động lạm quyền,
nên cần có những phương thế bắt buộc và ngăn ngừa người cầm quyền không được
" tác oai tác quái tuỳ hỷ":
" Trong nhãn
giới đó, chúng ta sẽ thấy rằng lối kiến trúc Hiến Pháp dựa trên "Kiểm Soát
và Cân Bằng" vẫn còn có hiệu năng cho cuộc sống của dân chúng Hoa Kỳ trên
hai thế kỷ nay, nó đã vô hiệu hoá nhiều toan tính độc đoán thoáng xuất hiện một
đôi khi ở chân trời" . Trong khi đó tư tưởng về phân chia quyền lực, trọng
tâm sự chú ý của các vị soạn thảo Hiến Pháp Philadelphia, là tư tưởng mà các vị
được hấp thụ từ Montesquieu, được loan truyền qua các thuộc địa của Anh tại Mỹ
Châu bằng việc phổ biến rộng rải sách báo. Nhìn thoáng qua, chúng ta có cảm
tưởng rằng nguyên tắc phân quyền và nguyên tắc « Kiểm Soát và Cân Bằng » vừa kể
có thể nghịch lý nhau.Nhưng suy nghĩ kỷ hơn, các vị sáng lập viên ý thức rằng
không thể thiết lập ra một hệ thống để các cơ quan quyền lực kiểm soát nhau,
nếu mổi cơ quan liên hệ không được giao phó cho uy quyền rộng rãi trong lãnh
vực mình. Ngược lại, không thể để cho những cơ quan có lãnh vực độc lập rộng
rãi, mà không có sự kiểm soát của những cơ quan khác :
« Chúng ta không
nên lầm lẩn pha trộn nguyên tắc « Kiểm Soát và Cân Bằng » với nguyên tắc « Phân
Chia Quyền Lực » : hai nguyên tắc hiến định tách biệt, mặc dầu phụ thuộc
nhau.Qua nguyên tắc « Kiểm Soát và Cân Bằng » chúng ta tìm cách biến đổi bản
chất đối đầu ( conflit) của nhiều quyền lực với nhau, tiềm tàng trong nguyên
tắc phân quyền , thành tinh thần hợp tác » . Một trong những điều quan tâm then
chốt nhất của nhũng vị sáng lập Liên Bang Hoa Kỳ là các điều khoản của Hiến
Pháp phải trở thành cơ chế bảo đảm cho quyền tự do mà các Tiểu Bang vừa đạt
được qua bao nhiêu hy sinh trong cuộc chiến đấu dành độc lập chống lại mẩu quốc
Anh. Mặt khác cũng phải lưu ý làm cách nào cho các điều khoản trên không trở
thành chướng ngại vật làm suy yếu vai trò của Chính Phủ Liên Bang trong chức vụ
của mình. Nói cách khác, đặt trọng tâm một cách chắc nịt thái quá vào nguyên
tắc phân quyền sẽ phương hại đến hiệu năng hành xử quyền hành của Chính Phủ
Liên Bang .
Nói tóm lại, cần phải tìm ra một trung điểm thăng bằng để làm sao
giữa các quyền hành tách biệt có mối tương giao và hợp tác giữa các cơ chế hiến
định của Quốc Gia, nhằm tránh được những sự đụng chạm và tranh chấp có thể làm
tê liệt guồng máy quốc gia. Qua những kinh nghiệm của 6 năm chung sống Liên
Bang, kể từ ngày 13 cựu thuộc địa Anh quốc ký " Những Điều Khoản Thỏa Ước
Liên Bang"( Articles of Confederation) 15.11.1777, những vị sáng lập Liên
Bang nhận thấy Chính Phủ của Quốc Gia Liên Bang quá yếu, bởi lẽ mọi quyền bính
gần như được giao phó hết cho cơ quan lập pháp ( Quốc Hội). Do đó các vị đồng
thuận tìm ra phương thức để Chính Phủ Liên Bang có nhiều quyền hạn hơn, hành
động hữu hiệu hơn.Nguyên tắc phân
quyền là thể chế hiến định hữu hiệu bảo đảm cho chính phủ được tự do, vì mỗi
quyền hạn được giao cho các cơ quan khác nhau.
Nguyên tắc
"Kiểm Soát và Cân Bằng" bảo đảm cho những mối liên hệ cần thiết giữa
các quyền lực bị chia tách, để những cơ quan độc lập tách biệt có thể cộng tác
với nhau , mưu ích chung cho đất nước. Sau khi duyệt xét qua những đường hướng
chỉ đạo cho lối suy tư của các vị sáng lập viên Liên Bang, chúng ta hiểu được
phần nào ly tưởng của Hiến Pháp Philadelphia của Hoa Kỳ. Sau đây là những nét
chính của Hiến Pháp trong thể chế chính trị và tổ chức hành pháp của Cộng Hòa
Liên bang Hiệp Chủng Quốc:
Tổng Thống là
Nguyên Thủ Quốc Gia và cũng là vị lãnh đạo hành pháp, được tuyển chọn do một ủy
Ban Tuyển Cử, được thành lập với nhiệm vụ tuyển chọn Tổng Thống.
Cơ quan lập pháp
gồm Lưỡng Viện Quốc Hội : Hạ Viện và Thượng Viện.Cả Hạ và Thượng Viện có nhiệm
vụ như nhau, nhưng vai trò khác nhau trong lúc thi hành nhiệm vụ. Hạ Viện là
viện các dân biểu , được tuyển chọn tùy theo tỷ lệ dân số của mỗi Tiểu
bang.Thượng Viện là việc của các Thượng Nghị Sĩ.Mỗi Tiểu Bang đều có số Thượng
Nghị sĩ như nhau, không phân biệt dân cư nhiều hay ít.
Cơ quan lập pháp
được chia thành hai viện để tăng gấp đôi sự bảo đảm cho dân chúng hầu tránh
những trường hợp lạm quyền, tham nhũng có thể xảy ra, người ta chỉ cần mua
chuộc, đút lót... cho một viện Quốc Hội là đạt được ý đồ (by requiring the
concurrence of two distinct bodies in schemes of usurpation or perfidy, where
the ambition or corruption of one would therwise be sufficient ) Hiến Pháp
Philadelphia quy định thể chế hành pháp là Tổng Thống Chế ( thay vì Đại Nghị
Chế) là áp dụng triệt để nguyên tắc phân quyền: quyền Hành Pháp và quyền Lập
Pháp được giao cho hai cơ quan tách biệt và độc lập, do thể thức bầu cữ của hai
cơ quan cũng khác biệt nhau.Điều nầy cũng nói lên tính cách " không tùy
thuộc" của Hành Pháp đối với Lập Pháp.
Cả hai cơ quan
Hành Pháp và Lập Pháp đều được " chính danh hoá"(légitimation) trong
việc hành xử quyền bính của mình, vì cả hai đều được tập thể quốc gia tuyển
chọn, mặc dầu bằng thể thức khác nhau. Do đó sự cân bằng của hai quyền lực đã
được hiến định dựa trên nguyên tắc"Đồng đẳng lưỡng cực chế"( dualismo
paritario) Tổng Thống không có quyền giải tán Quốc Hội. Quốc Hội cũng không có
quyền truất phế Chính Phủ, nếu không qua thể thức "Tố Giác"(
impeachment) Tổng Thống.
Để giữ mức cân
bằng giữa Tổng Thống và Quốc Hội, Hiến Pháp qui định một cơ chế thứ ba: Tối Cao
Pháp Viện, gồm các thành viện được Tổng Thống tuyển chọn và được Quốc Hội chấp
thuận.Tối Cao Pháp Viện có nhiệm vụ giải quyết những tranh chấp ,bất đồng giữa
Hành Pháp và Lập Pháp, cũng như giữa Quốc Gia Liên bang và các Tiểu bang thành
viên.
Nguyên tắc phân
quyền ở Hoa Kỳ không những được tổ chức dưới hình thức thông thường , ai trong
chúng ta cũng biết, đó là quyền lực quốc gia được phân chia ra thành các cơ
quan Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp, mà do thể chế chính trị Liên Bang các Tiểu
Bang được dành cho nhiều quyền hành rộng rải và độc lập đối với các cơ cấu
quyền lực trung ương.
Quyền lực quốc Gia
Liên Bang Hoa Kỳ được phân chia theo chiều ngang ( Lập Pháp, Hành Pháp và Tư
Pháp) và theo chiều dọc ( Quốc Hội, Chính Phủ ,Cơ quan Tư Pháp Liên Bang và các
cơ cấu quyền lực tương tự ở các Tiểu Bang). Các cơ quan công quyền theo chiều
dọc cũng như theo chiều ngang đều có lãnh vực rộng rãi tự lập trong quyền hạn
và hổ tương nhau trong hành động.
Một thể chế chính
trị nhằm phân chia quyền lực như vậy, là phương thức hữu hiệu để tránh mọi nguy
cơ độc tài do sự tập trung quyền lực quá đáng vào tay một cá nhân hay cơ quan.
Hiện tượng độc tài trong thể chế quân chủ cũng như dân chủ, quá khứ cũng như
hiện tại,không phải là điều hiếm xảy ra, nhất là ở các Quốc Gia theo Tổng Thống
Chế tại Trung-Nam Mỹ, Phi cũng như Á Châu( Chúng tôi đã có dịp đề cập đến trong
bài "Đại Nghị Chế Bền Vững,Cộng Hoà Liên Bang Đức").
Thể thức phân chia
quyền lực theo chiều ngang cả chiều dọc được GS Lucifredi, Viện Chính Trị Học
Đại Học Milano (Ý) cho là một " phương thức lưu tâm khôn khéo tài
tình"( una geniale escogitazione) của các vị sáng lập Liên bang Hoa Kỳ .
Như chúng tôi đã có dịp đề cập trên, qua kinh nghiệm không mấy khích lệ của 6
năm chung sống sau ngày ký kết "Những Điều Khoản Thỏa Ước Liên Bang"
năm 1777, nhiều đại biểu của Quốc Hội Lập Hiến Philadelphia, xác nhận được sự
yếu kém của Chính Phủ Trung Ương,thấy cần phải thay đổi đường hướng: biến Chính
Quyền trung Ương thành một tổ chức quyền thế, độc lập như một Tiểu Bang với
quyền tối thượng thực sự.Có như vậy Quốc Gia Liên Bang mới bảo đảm được an ninh
trong nội bộ và đồng thời có sức mạnh đối đầu với các cường quốc quân sự khổng
lồ lúc đó như Anh, Pháp và Tây Ban Nha. Ý thức được nhu cầu cần kiện toàn thêm
quyền hành của Chính Phủ Trung Ương cũng như áp dụng nguyên tắc phân quyền theo
chiều cao, các vị đại biểu đồng ý thêm vào những luật sẵn có của các Tiểu Bang,
cần soạn thảo thêm những quy luật liên bang có liên hệ đến các tiểu bang, để
cùng một lúc Quốc Gia Liên Bang Hoa Kỳ có hai mức độ chính quyền. Mỗi Chính
Quyền đều có quyền tối thượng trong lãnh vực của mình được Hiến Pháp minh định,
hành xử trên cùng một lãnh thổ và cộng đoàn dân chúng
Tu Chính án thứ 9
của Hiến Pháp nêu rõ tinh thần vừa kể:
"Các quyền
hạn mà Hiến Pháp không ủy thác cho Chính Phủ Liên Bang, hoặc không bị cấm đoán
đối với các Tiểu Bang, quyền điều hành dành cho các Tiểu bang hay cho dân
chúng" ( Điều 9, Hiến Pháp Philadelphia).
Và Tocqueville khi
đặt chân lên đất Mỹ đã phải khâm phục cách thức tổ chức Liên bang của Hoa
Kỳ.Theo ông, do việc phân tán quyền lực theo chiều dọc đến các Tiểu bang, Quốc
Gia Hoa Kỳ đã thể hiện được tinh thần dân chủ đa nguyên, trong đó nhiều trung
tâm quyền lực tự lập là yếu tố chính yếu tránh được sự tập trung quyền hành của
giới cầm quyền và đồng thời thể hiện được sự bảo đảm chắc chắn cho tự do của
người dân .
Hoa Kỳ đã tổ chức
Quốc Gia qua một Chính Phủ Trung Ương, nhiều Chính Quyền ( 50) ở cấp Tiểu Bang
và hàng trăm ngàn chính phủ khác biệt nhau về cơ cấu, thể thức hành quyền cũng
như nhiệm vụ ở tỉnh, quận ( County), làng xã( Municipal), thôn ấp hay khu phố (
Townships). Cách tổ chức chính quyền dân chủ đa nguyên đó là bức tường ngăn
chận chống lại những toan tính độc tài từ phía trung ương đến.Không một vị lãnh
đạo nào, không một đảng phái nào có thể kiểm soát nổi tất cả các chính quyền
địa phương đều khắp như vậy để thực hiện mưu đồ của mình được.
Thể chế Liên bang
giữ vững được sự thống nhất Quốc Gia, không biến Quốc Gia thành "đồng nhất
rập khuôn" ( identic) trong phương thức hành quyền. Các chính quyền địa
phương sống sát với đời sống thực tế của dân chúng, thấy được nhu cầu địa
phương để có thể can thiệp kịp thời, xác thực và hữu hiệu trong sứ mạng phục vụ
người dân của Chính Phủ.
I I - Tổng Thống Chế
Vai trò của vị
Tổng Thống Hoa Kỳ là kết quả của những giải quyết nhân nhượng dung hoà từ những
đề nghị khác nhau của những vị đại biểu về hợp trong quốc Hội Lập Hiến
Philadelphia. Tụư trung có bốn đề nghị khác nhau:
Đề nghị của Tiểu
Bang Virginia:
Quyền Hành Pháp hoàn toàn tùy thuộc vào Lập Pháp: Tổng Thống sẽ được Quốc Hội
Liên Bang bầu ra và chỉ có một nhiệm kỳ duy nhất.
Đề nghị thứ hai:
Quyền Hành Pháp được giao phó cho một Hội Đồng Lãnh Đạo, được các Tiểu Bang
trực tiếp bầu ra.Đề nghị nầy bị các đại biểu phê bình là hình thức làm suy yếu
quyền Hành Pháp và đặt Hành Pháp tùy thuộc vào Lập Pháp .
Đề nghị Hamilton: Nhiệm kỳ của
Tổng Thống có giá trị suốt đời. Tổng Thống được tuyển chọn do một ủy Ban Tuyển
Cữ Tổng Thống, được các Tiểu Bang lựa chọn.
Một đề nghị khác:
Tách rời việc tuyển cữ Tổng Thống ra khỏi bất cứ liên hệ nào đối với Lập Pháp.
Tổng Thống, vị lãnh đạo Hành Pháp có quyền hạn tương đương Vua của Anh Quốc.
Sau một thới gian
bàn cải sôi nổi và 30 lần bỏ phiếu các vị trong Quốc Hội Lập Hiến đã chấp thuận
đề nghị cuối cùng với một vài sửa đổi . Và đây là kết qủa của những lần bỏ
phiếu đó, được ghi vào Hiến Pháp Philadelphia, làm nền tảng cho Quốc Gia Liên
Bang Hoa Kỳ trên hai thế kỷ nay:
1 - Nhiệm vụ của Tổng Thống
Nguyên Thủ Quốc
Gia và lãnh đạo Hành Pháp.
Được một ủy Ban
Tuyển Cử bầu lên. Nhờ đó vị Tổng Thống không tùy thuộc Lập Pháp và cũng không
tùy thuộc trực tiếp vào khối đại chúng.
Ủy Ban Tuyển Cử
được thành lập tùy theo luật pháp của mỗi Tiểu Bang. Ủy Ban Tuyển Cữ gồm có đại
diện các Tiểu Bang. Mỗi Tiểu Bang được đưa vào ủy Ban Tuyển Cử một số cử tri
đại diện tương ứng với số Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ mà Tiểu Bang đã cử vào
Quốc Hội Liên Bang.
Về phía ứng viên:
Kể từ năm 1800 đến
1820, việc tuyển chọn ứng cữ viên Tổng Thống được chọn lựa trong các phiên hợp
Đại Hội các đảng phái.
Từ năm 1827 trở
đi, ứng viên Tổng Thống do Đại Hội Đảng toàn quốc ( Party National Convention)
lựa chọn.
2 - Bầu cử Tổng Thống
Tổng Thống có
nhiệm kỳ 4 năm và được tái cử tối đa thêm một lần ( Tu Chính án thứ 22).
Hamilton cho rằng nhiệm kỳ 4 năm là thời gian khá dài để Tổng Thống có đủ thời
gian quy định và thực hiện chương trình chính trị của ông, cũng như dân chúng
có đủ thời gian để nhìn thấy kết quả việc làm của hành pháp và đủ yếu tố để
phán đoán.
Cũng vậy , trước
viễn tượng có thể được tái cử, Tổng Thống được kích lệ để nổ lực hơn vào nhiệm
vụ của mình hầu mang lại công ích .
Điều kiện:
Công dân Hoa Kỳ từ
khi sinh ra, ít nhứt 35 tuổi, cư ngụ trên lãnh thổ Hoa Kỳ ít nhứt từ 14 năm .
Tiến trình tuyển cử:
Cuộc tuyển cử Tổng
Thống bắt đầu bằng tiến trình tuyển chọn các cử tri tại các Tiểu Bang để về
tham dự Đại Hội Đảng toàn quốc. Việc tuyển chọn số cử tri ở mổi Tiểu Bang tuỳ
thuộc vào nội quy của Đảng. Đó là cuộc tuyển cử sơ khởi ( primary).
Các cử tri của
cuộc tuyển cử sơ khởi trong một Tiểu Bang hợp thành Ủy Ban Tuyển Cử Tri Đoàn
của Tiểu Bang.Giữa các cử tri của Cử Tri Đoàn , một số cử tri sẽ được tuyển
chọn đi dự Đại Hội Toàn Đảng Quốc ( Party National Convention). Các cử tri đi
đự Đại Hội Đảng Toàn Quốc phải tuyên hứa với Cử Tri Đoàn của Tiểu Bang là họ sẽ
bỏ phiếu cho ứng cử viên đã được Cử Tri Đoàn quyết định.
Nomination
Trong số các cử
tri về tham dự Đại Hội Đảng Toàn Quốc, Đại Hội sẽ lựa chọn hai ứng cử viên, một
cho chức vụ Tổng Thống và một cho Phó Tổng Thống.
Tiến trình tuyển
cử được diển tả đến đây là phần riêng tư, tuỳ thuộc hoàn toàn vào đảng quy và
luật lệ các Tiểu Bang: Hiến Pháp không đá động gì đến.
Với tiến trình vừa
kể, chúng ta dã duyệt xét qua thể thức tuyển chọn ứng cử viên.
Về phía cử tri hợp
thành ủy Ban Tuyển Cử Tổng Thống, Hiến Pháp xác định:
" Mỗi Tiểu
Bang, tùy thuộc luật pháp của Tiểu bang mình, sẽ chọn một số cử tri, tương
đương với số Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ của mình ở Quốc Hội . Để chu toàn điều
khoản trên, mỗi Tiểu Bang thành lập một Ủy Ban Tuyển Cử Tổng Thống của Tiểu
Bang mình. Ban đầu Ủy Ban nầy do luật lệ của Tiểu Bang quyết định. Dần dần các
Tiểu Bang bỏ thủ tục trên và tổ chức cuộc phổ thông đầu phiếu để chọn các cử
tri đi tuyển cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống.
Thể thức trên cho
chúng ta có cảm tưởng là cuộc bầu cử Tổng Thống là một cuộc tuyển cử gián tiếp
( dân chúng bầu ra cử tri, sau đó cử tri đi bầu Tổng Thống), theo tinh thần
hiến định nằm trong tâm thức của các vị sáng lập Hiến Pháp Philadelphia.
Trên thực tế, sự
việc hoàn toàn không hẳn như vậy.Bởi lẽ các cử tri được bầu trong các cuộc phổ
thông đầu phiếu đã đoan hứa với dân chúng là họ sẽ bỏ phiếu chọn ứng cử viên
Tổng Thống mà dân chúng vùng đó muốn. Do đó cuộc bầu cử Tổng Thống gián tiếp,
trên thực tế trở thành trực tiếp, bởi vì cử tri được chọn đi bỏ phiếu không có
quyền bỏ phiếu cho ứng cử viên khác , ngoài ứng cử viên đã được dân chúng của
vùng mình chỉ định.
Tổng số Dân Biểu
và Thượng Nghị Sĩ của Quốc Hội Hoa Kỳ là 538 người. Do đó số cử tri được các Tiểu
Bang cử về hợp thành Ủy Ban Tuyển Cử Tổng Thống , theo điều khoản của Hiến Pháp
vừa kể, cũng sẽ là 538 người.Từ đó, ứng cử viên Tổng Thống được đắc cử phải
chiếm được đa số phiếu , ít nhứt là 270 phiếu ( đa số tuyệt đối).
Như trên đã nói,
cử tri của các Tiểu Bang được cử về thành lập ủy Ban Tuyển Cử Tổng Thống, được
chọn lựa qua cuộc phổ thông đầu phiếu ở cấp Tiểu Bang. Do đó, ứng cử viên nào
chiếm được đa số cử tri của Tiểu bang, thì ứng cử viên đó sẽ đoạt tất cả các
phiều mà Tiểu Bang sẽ dồn cho, theo tinh thần "người thắng cuộc đoạt
hết"( winner takes all), và cũng theo luật pháp Liên Bang coi Tiểu Bang là
một địa hạt duy nhứt ( ngoại trừ Tiểu Bang Maine và Nebraska).
Như vậy không có
nghĩa là ứng cử viên nào thắng cử ở nhiều Tiểu bang, chắc chắn sẽ đắc cử Tổng
Thống. Như chúng ta biết, mỗi Tiểu Bang có 2 Thượng Nghị Sĩ ở Quốc Hội, còn số
Dân Biểu tùy thuộc vào số đông dân chúng. Do đó những Tiểu Bang to lớn mà các
ứng cử viên thường gọi là "bảy Tiểu Bang bự" ( Big Seven):
California, New York, Texas, Pennsylvania,Illinois, Ohio và Florida có rất niều
số phiếu hơn các Tiểu Bang nhỏ , như Alaska chẳng hạn.
3 - Quyền hạn của Tổng Thống
Với tư cách là
Nguyên Thủ Quốc Gia, Tổng Thống tượng trưng cho sự hợp nhất của đất nước ,
nhưng không có quyền trên tất cả mọi thành phần, và có nhiệm vụ chính trong
việc quy định đường hướng và tổ chức thực hiện chương trình chính trị cho Quốc
Gia.
Tổng Tư Lệnh Quân
Đội
Có quyền ban ân
xá, ký các hiệp ước quốc tế, chỉ định các đại diện ngoại giao, chỉ định các
Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện và lựa chọn các công chức cao cấp .
Với tư cách là
ngưới lãnh đạo cơ quan Hành Pháp , Tổng Thống có nhiệm vụ hoạch định đường lối
chính trị và tổ chức thực hiện. Để chu toàn nhiệm vụ trên, dưới tay Tổng Thống
có một hệ thống hành chánh khổng lồ , được gọi là Văn Phòng Phủ Tổng Thống (
cabinet) . Văn Phòng Phủ Tổng Thống gồm 15 Tổng Thư Ký, tương đương với 15 Bộ
Trưởng, mỗi người đặc trách một Bộ, được TổngThống lựa chọn và có trách nhiệm
trực tiếp với Tổng Thống. Việc Tổng Thống tuyển chọn các Tổng Thư Ký đứng đầu
mổi Bộ Phận Đặc Nhiệm phải được Quốc Hội chuẩn y.
Giữa Tổng Thống và
các Bộ Đặc Nhiệm, cũng như sự liên quan giữa các Bộ với nhau, Hiến Pháp không
xác nhận cơ quan nào có trách nhiệm phối hợp.Hiến Pháp chỉ nêu ra nguyên tắc:
"Tổng Thống
có thể hỏi ý kiến bằng văn thư nhân viên đặc trách chính của các Bộ Đặc Nhiệm
Hành Pháp.
Việc Hiến Pháp
không xác định một cách rỏ rệt một cơ quan tổng quát đặc trách trực thuộc dưới
quyền Tổng Thống, một mặt nói lên tính cách đồng nhất về chính trị của Hành
Pháp( tất cả đều qui tóm về vai trò độc nhứt của Tổng Thống),nhưng đàng khác
làm cho Văn Phòng Phủ TổngThống gặp khó khăn trong việc phối hợp hoạt động của
các Bộ Đặc Nhiệm.
Ngoài 15 Tổng Thư
Ký Văn Phòng Phủ Tổng Thống, Tổng Thống cũng có quyền hạn rộng rãi trong việc
chỉ định những nhân viên cao cấp của Hành Pháp trong nhiều lãnh vực khác
nhau.Người ta ước đoán, mổi lần thay đổi Tổng Thống là có khoảng 2.000 nhân
viên cao cấp trong các Bộ bị thay thế, nếu vị Tổng Thống không được tái bổ
nhiệm.
Đối với cơ quan
Lập Pháp, Tổng Thống không phải là Chủ Tịch ( Chủ Tịch của hai Viện Quốc Hội là
: Chủ Tịch Thượng Viện và Chủ Tịch Hạ Viện). Nhiệm vụ Tổng Thống thỉnh thoảng
sẽ loan báo cho Quốc Hội về tình trạng chung của Liên Bang và yêu cầu Quốc Hội
cứu xét những chính sách mà ông cho là cần thiết Do Hiến Pháp quy định, chúng
ta thấy Tổng Thống có nhiệm vụ:
- Báo cáo với Quốc
Hội về tính hình đất nước.
- Triệu tập Quốc
Hội trong những trường hợp đặc biệt.
- Xử dụng quyền
phủ quyết đối với những dự án luật được Quốc Hội chuẩn y.
Quyền phủ quyết
của Tổng Thống do Hiến Pháp quy định, nhằm kích thích Quốc Hội phải dốc hết tâm
lực vào công việc của mình , cũng như để Tổng Thống có thể kiểm soát công việc
và đường lối của Quốc Hội.
Dần dần, nhứt là
sau nhiệm kỳ của Tổng Thống Wilson ( 1913 - 1921), Tổng Thống dùng hai quyền
"Thông Báo" và "Phủ Quyết" do Hiến Pháp quy định, thành lợi
khí và đòn bẩy để nới rộng quyền lực của mình nói riêng và của Hành Pháp nói
chung. Hiện nay Tổng Thống trong những dịp "thỉnh thoảng" ( trong
thực tế gần đây khá nhiều dịp, chớ không phải "thỉnh thoảng" nữa như
Hiến Pháp đề cập), thông báo cho Quốc Hội về tình trạng đất nước, ông dùng
quyền thông báo như những cơ hội nói lên chương trình và đường hướng chính trị
của ông và của Chính Phủ do ông lãnh đạo. Với những phương tiện truyền thông
tối tân hiện nay,đây cũng là dịp ông dùng để thuyết phục dân chúng về đường
hướng chính trị và yêu cầu dân chúng ủng hộ ông, đặt Quốc Hội trong gọng kềm
" trên đe dưới búa" ( trên dân chúng và dưới áp lực của Chính Phủ).
Quốc Hội phải suy tư , gãi tai uốn lưỡi ba lần bảy lược trước khi từ chối.
Trong lịch sữ, những bài tường trình, thông tin đầu tiên của Tổng Thống trước
Quốc Hội rất tổng quát và không chứa đựng những hàm ý chính trị nào. Thậm chí
Tổng Thống Jefferson ( 1801 - 1809 ) không muốn đọc bản tường trình của ông
trước quốc Hội, để tránh " ảnh hưởng quá nhiều đến Quốc Hội" . Tổng
Thống Wilson ( 1913 - 1921 ) , thời gian của Đệ I Thế Chiến ( 1914 - 1918 ) đã
thân hành đứng ra tường trình và yêu cầu Quốc Hội cứu xét.
Hiện nay, như đã
nói, Tổng Thống không những thân hành đứng ra trình bày, mà lựa chọn giờ nào
dân chúng xem truyền hình đông nhứt để "thông báo" cho Quốc Hội (và
dĩ nhiên là cho cả nước) .
Theo giáo sư
Mortati, đại hoc Padova:
"Với hình
thức đó, Tổng Thống thành công trong việc " vượt thoát " được trở
ngại, do Hiến Pháp không quy định cho Tổng Thống quyền" có sáng kiến lập
pháp" ( diritto di iniziativa legislativa) , để " gợi ý" cho
Quốc Hội một cách chính thức các " dự án luật" mà ông cho là quan
trọng và Quốc Hội phải đưa ra bàn cãi và chuẩn y. Dĩ nhiên về phương diện hình
thức , do nguyên tắc hiến định Tổng Thống không quyền " có sáng kiến lập
pháp", các dự án luật được Tổng Thống "mớm" cho Quốc Hội sẽ
không được đem ra bàn cãi, nều không được một Thượng Nghị Sĩ hay Dân Biểu
"nhận lãnh" và tường trình cho Quốc Hội một cách chính thức .Nhưng
với số Thượng và Hạ Nghị Sĩ ủng hộ bỏ phiếu trong việc đắc cữ Tổng Thống vừa
qua( ít nhứt là 270 vị), việc tìm được một " bồ nhà" để trình bày
chính sách của ông trong Quốc Hội không phải là việc khó làm.
Quyền phủ quyết
của Tổng Thống:
"Bất cứ dự án
luật nào được Thượng và Hạ Viện chuẩn y, trước khi trở thành luật, phải được đệ
trình lên Tổng Thống..."
Nếu dự án trên
được Tổng Thống đồng thuận chuẩn y sẽ trở thành luật.Nếu không, Tổng Thống có
thể dùng quyền phủ quyết, dự án sẽ bị gởi trả lại cho Hạ Viện, nơi xuất xứ của
dự án.
Trong trường hợp
bị phủ quyết, nếu muốn thắng được quyền phủ quyết của Tổng Thống, Quốc Hội phải
hội đủ 2/3 tổng số phiếu Lưỡng Viện đồng thuận một lần nữa.Trường hợp nầy rất
hiếm xảy ra, cũng có thể nói là chưa bao giờ xảy ra trong lịch sữ Hoa Kỳ. Bởi
vì Tổng Thống luôn luôn được ít nhứt 1/3 tổng số phiếu trong Quốc Hội ủng hộ.
Như vậy chúng ta có thể hiểu rằng quyền phủ quyết của Tổng Thống không phải chỉ
là quyền tiêu cực của Tổng thống đối với cơ quan Lập Pháp. Chỉ cần viển tượng
Tổng Thống sẽ "bác bỏ" cũng đủ làm cho Quốc Hội tìm cách thay đổi dự
án theo chiều hướng chính trị của Tổng Thống .Quyền phủ quyết của Tổng Thống
trong những thới gian đầu của lịch sữ Liên Bang ít khi được dùng tới. Nhưng với
tình hình xã hội, kinh tế của nội địa Hoa Kỳ đã thay đổi, cũng như tình hình
"diển biến quốc tế" bắt buộc Hoa Kỳ phải có một trung tâm Hành Pháp
hữu hiệu để đối phó kịp thời với nhu cầu. Vị thế của Tổng Thống càng ngày càng
trở nên trung tâm quyền lực Quốc Gia, Tổng Thống không những là lãnh tụ của
Hành Pháp mà còn đóng vai trò tích cực trong cả cơ quan Lập Pháp với quyền
"thông báo" và "phủ quyết" đã được Hiến Pháp quy định. Vai
trò tích cực đó đã được thể hiện càng ngày càng rỏ rệt nhứt là trong các nhiệm
kỳ của Tổng Thống Wilson ( 1913 - 1921 ), Franklin D. Roosevelt( 1933 - 1945 )
, tức là hai thời kỳ của Đệ I và Đệ II Thế Chiến ( 1914 - 1918 và 1939 - 1945
). Một ví dụ điển hình là Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã trở thành động
lực tích cực của Lập Pháp trong khóa hợp của Quốc Hội từ 9.3.1933 đến
16.6.1933, được mệnh danh là phiên hợp "100 ngày", Tổng Thống
Roosevelt đã đưa ra một loạt những dự án quan trọng để đương đầu với "tính
thế khẩn cấp quốc gia"( Emergency Banking Act), để tân trang lại kỷ nghệ,
phát triển lại công chánh, giải quyết thất nghiệp và cứu nguy tình trạng nguy
cấp của Thị Trường Chứng Khoán Wall street năm 1929.
4 - Chính đảng và Tổng Thống.
Sự cân bằng quyền
lực giữa những cơ quan phân biệt của Quốc Gia bị ảnh hưởng không những từ những
nhân vật chính ( Tổng Thống, Quốc Hội ), mà còn của từ những yếu tố định chế,
như các chính đảng.
Hai chính đảng của
Hoa Kỳ là đảng Dân Chủ và đảng Cộng Hoà có thể tạo ra những mối tương quan ảnh
hưởng giữa hành Pháp và lập Pháp như sau:
Cả Hành Pháp lẫn
Lập Pháp đều do một chính đảng kiểm soát (party government ).Chính đảng của
Tổng Thống chỉ kiểm soát được một trong hai Viện Quốc Hội ( truncated
majority).
Quốc Hội và Tổng
Thống thuộc hai chính đảng đối lập nhau ( divided government ).
Một trong những
nhược điểm của Hiến Pháp Hoa Kỳ là hiến Pháp không ấn đinh cơ quan hiến định
nào điều giải những bế tắc giữa các cơ quan quyền lực Quốc Gia ( Lập Pháp và
Hành Pháp). Ví dụ Hiến Pháp không ấn định rõ ràng trong trường hợp bị bế tắc,
cơ quan hiến định nào có thể tổ chức bỏ phiếu trước định kỳ để giải quyết.
Trái lại, theo
Hiến Pháp cả Hành Pháp lẫn Lập Pháp, không cơ quan nào được quyền "bất tín
nhiệm " cơ quan kia.Và cũng không có điều khoản nào tiên liệu việc bỏ
phiếu trước định kỳ. Do đó cả Quốc Hội lẫn Tổng Thống đều giữ nhiệm vụ cho đến
mãn hạn kỳ.
Thủ tục " Tố
giác" ( impeachment) Tổng Thống được Hiến Pháp ấn định chỉ trong trường
hợp:
"Can tội phản
quốc, hợp tác với kẻ thù hoặc những trọng tội khác" .
Nhưng cái may của
Liên Bang Hoa Kỳ là cách tổ chức các chính đảng. Trong trường hợp đụng chạm
nhau giữa các cơ quan quyền lực do hai trường hợp cuối cùng kể trên ( truncated
majority và divided government), các chính đảng giữ vai trò liên kết và hoà
giải giữa hai cơ quan quyền lực . Như đã trình bày trên,trong các Tiểu Bang của
Hoa Kỳ hiện nay có 13 Tiểu Bang là cựu thuộc địa Anh Quốc đã hiện hữu trước khi
hợp lại thành Quốc Gia Liên Bang Hoa Kỳ. Mặc dầu hợp lại để thành lập Quốc Gia
Liên Bang, các Tiểu Bang ( kể cả các Tiểu Bang mới ) vẫn giữ tư cách tự trị của
mình và Hiến Pháp vẫn chấp nhận quyền độc lập tối thượng của mỗi Tiểu Bang.
Cùng với tinh thần đo , mặc dù các cơ sở của các chính đảng Cộng Hòa và Dân Chủ
có mặt trên khắp các Tiểu Bang, mỗi cơ sở đảng ở mỗi Tiểu Bang được coi như là
những cơ sở tự trị. Mỗi cơ sở coi việc thắng cữ của họ ở địa phương quan trọng
hơn cả việc việc thắng cữ trên toàn quốc. Do đó, mỗi Dân Biểu hay Thượng Nghị
Sĩ ở Quốc Hội được coi là những tiểu vũ trụ, không liên hệ mấy với đảng phái và
từ trung ương, đảng khó lòng mà điều khiển họ được.
Do đó ngay cả
trong trường hợp Hành Pháp và Lập Pháp do hai đảng đối lập kiểm soát ( divided
government),việc đụng chạm ý thức hệ chưa bao giờ trở thành " chạm
trán" để làm tê liệt việc hành xử quyền lực quốc gia .Trên phương thức
thực hành , mỗi 4 năm ở tầm vóc quốc gia các chính đảng tổ chức quy tụ lực
lượng để bỏ phiếu chiếm ghế Tổng Thống, nhưng trên thực tế chính đảng ở Hoa Kỳ
chỉ là một tập hợp liên kết nhiều đảng nhỏ tự trị từ các Tiểu Bang .Một kinh
nghiệm minh chứng cho tư tưởng của GS Hahn: trong cuộc bầu cữ 1960, các vị lãnh
đạo đảng Dân Chủ ở Tiểu bang Alabama và Mississipi, bất tuân lệnh của trung
ương đảng, không bỏ phiếu cho " gà nhà" Kennedy, sợ Kennedy chẳng may
trúng cữ có thể hổ trợ cho các phong trào đòi nhân quyền.
I I I - Quốc Hội
Ước vọng của các
vị soạn thảo Hiến Pháp Philadelphia là đặt trung tâm quyền lực Quốc Gia vào
Quốc Hội.
Quốc Hội hay cơ
quan Lập Pháp được dân chúng bầu cử trực tiếp, có liên hệ chặt chẽ với dân,
hiểu đời sống và nhu cầu của dân, nên luật lệ do Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ của
Quốc Hội " Chuẩn y hay Bác bỏ" hay "Lập pháp", tức là
"đồng thuận cho luật pháp ra đời" , đáp ứng thiết thực ước vọng của
người dân.
Trái lại, Tổng
Thống được một Ủy Ban Tuyển Cử lựa chọn, không có liên hệ trực tiếp với dân
chúng. Tổng Thống và cơ quan Hành Pháp của ông chỉ thực hiện những gì luật pháp
( do Quốc Hội " lập" ra) định sẳn ( ít nhứt là trên nguyên tắc). Và
vì không liên hệ trực tiếp với dân, nên những gì Hành Pháp thực hiện, không bị
lệ thuộc, ảnh hưởng, ý kiến của dân chúng làm cho thay đổi. Ước vọng trên của
các vị được Hiến Pháp ghi lại:
" Tất cả mọi
quyền lập pháp... được giao cho Quốc Hội Liên Bang, gồm có một Thượng Viện và
một Hạ Viện của các Dân Biểu" ( Điều 1, khoản 1 Hiến Pháp Philadelphia).
Ý kiến chung của
các vị soạn thảo Hiến Pháp Philadelphia đều đồng thuận cho rằng quyền Lập Pháp
phải được coi là uy quyền chính yếu trong quyền lực quốc gia đối với Hành Pháp.
Đàng khác giải pháp Lưỡng Viện Quốc Hội là giải pháp dung hòa đối với những
xung khắc giữa các Tiểu Bang lớn và các Tiểu bang nhỏ.Thật vậy, Hiến Pháp
Philadelphia quy định rằng ở Hạ Viện mỗi Tiểu Bang được một số Dân Biểu tùy tỷ
lệ dân số của Tiểu Bang mình ( Điều 1, khỏan III), theo ý muốn của các Tiểu
Bang đông dân cư. Trái lại, ở Thượng Viện mỗi Tiểu bang đều có một số Thượng
Nghị Sĩ ngang nhau, không kể dân số ít nhiều, theo nguyện vọng của các Tiểu
Bang có ít dân ( Điều 1, id.) . Chính hệ thống Lưỡng Viện Quốc Hội và hệ thống
tổ chức Quốc Gia theo Liên Bang, cũng như vai trò và cơ cấu theo hình thức Liên
Bang của các chính đảng làm cho mối liên hệ giữa Hành Pháp và Lập Pháp có tính
cách co giản , tránh được những cuộc " chạm trán" cứng rắn làm tê
liệt guồng máy quyền lực quốc gia.
Mặc dầu cả hai
viện đều thuộc cơ quan Lập Pháp và địa vị của cả hai đều " Lập Pháp"
và ngang nhau, nhưng vai trò khác nhau trong việc chu toàn nhiệm vụ của mình
"chuẩn y hay bác bỏ". Hạ Viện là ngành Lập Pháp của đại chúng (
popular branch) : được bầu ra do phổ thông đầu phiếu và theo tỷ lệ số đông dân
chúng, nên đại diện cho toàn dân. Trái lại, Thượng Viện là cơ quan đại diện cho
Tiểu Bang, bênh vực quyền tối thượng trự trị và những lợi thế khác của Tiểu
Bang . Các dự án luật , trước hết, phải được cả hai viện chấp thuận , sau đó
mới được đệ trình lên Tổng Thống để phê chuẩn và trở thành luật để được Hành
Pháp đem ra thi hành.
Và sau đây là một
số quyền hạn được Hiến Pháp quy định cho viện nầy hay viện khác:
Dự án về ngân sách
quốc gia ( Money Bills) được giao cho Hạ Viện cưú xét, mặc dù Thượng Viện có
quyền thêm bớt bằng các Tu Chính án ( Điều l , khoản VII).
Thượng Viện có độc
quyền phê chuẩn các dự án về chính sách ngoại giao và kiểm soát việc chỉ định
nhân viên công quyền của Tổng Thống. Trường hợp "tố giác" đối với bất
cứ nhân viên công quyền nào ( Tổng Thống, Phó Tổng Thống, các thành viên của
Phủ Tổng Thống...) can tội: phản bội quốc gia, hợp tác với kẻ thù hay can dự
vào các trọng tội nào khác, sẽ bị chính Hạ Viện bắt đầu thủ tục " tố giác"
( Điều 2,7).Trong khi phần kết án được giao cho Thượng Viện ( Điều 1, khoản
III,4). Trong trường hợp bị buộc tội, phạm nhân bị cất chức khỏi nhiệm sở, bị
cấm không được đảm nhiệm bất cứ chức vị danh dự, tín nhiệm nào khác, cũng như
không được trả bất cứ một khoản lương bổng nào. Ngoài ra có thể bị đưa ra tòa
và bị xét xử theo luật pháp.( Điều 9, khoản III,7).
1 - Hạ Viện ( U.S. House of Representatives )
Hạ Viện là một cơ
chế to lớn, với 435 Dân Biểu, được phân chia theo tỷ lệ dân số trong các Tiểu
Bang. Con số 435 là con số được đạo luật Liên Bang năm 1929 xác định. Con số
trên được chia đồng đều cho các Tiểu Bang theo tỷ lệ dân chúng. Số dân cư sẽ
được quy định do cuộc kiểm tra dân số cứ 10 năm một lần. Và con số Dân Biểu
trên sẽ được phân chia lại cho các Tiểu Bang do kết quả của cuộc kiểm tra dân
số mới nhứt . Đối với các Tiểu Bang qúa bé nhỏ, tuy không đạt được chỉ số tối
thiểu ( 550.000 dân), cũng được một Dân Biểu.
Hạ Viện có nhiệm
kỳ là 2 năm, theo thể thức bầu cữ đơn vị đơn danh và đa số tuyệt đối ( 50% +1
phiếu ).
Muốn ứng cữ vào Hạ
Viện phải là công dân của Hoa Kỳ, không bị mất quyền công dân , phải có thời
gian cư trú trên lãnh thổ Hoa Kỳ tối thiểu là 7 năm, hiện đang cư trú trong
Tiểu Bang mình muốn ra ứng cữ và có ít nhứt 25 tuổi.
Đạo luật "
Voting Rights Act" năm 1965 cấm tất cả mọi kỳ thị chủng tộc, cũng như bất
chấp tình trạng trước đây là nô lệ ( còn hiện hành đến lúc đó ở một vài Tiểu
Bang miền Nam).Đạo luật nầy mở rộng cho số cữ tri người Mỹ gốc Phi Châu.
Mới đây một đạo
luật khác hạ xuống 18 tuổi cho cử tri có quyền đi bỏ phiếu. Đạo luật nhằm tăng
số cử tri đáng kể ở các khuôn viên đại học với số cử tri sinh viên.
Chọn lối bầu cử
đơn danh cho mỗi địa phương, mỗi Tiểu bang được phân chia thành nhiều đơn vị
tuyển cử khác nhau. Việc phân chia Tiểu Bang thành nhiều đơn vị tuyển cử không
do Hiến Pháp quy định.Mổi Tiểu bang tự phân chia theo luật lệ cũng như theo
cách tổ chức tuyển cử của mình.
Với nguyên tắc mỗi
người một lá phiếu, các khu vực tuyển cử của Tiểu Bang phải được phân chia cách
nào để có số dân cư đồng đều. Cho dù theo nguyên tắc trên, việc phân chia Tiểu
Bang thành đơn vị tuyển cử cũng không tránh khỏi hiện tượng " thiên
vị" hay "hiện tượng Gerry"( Gerry, tên của Thống Đốc
Masschusetts, năm 1812 phân chia ranh giới khu vực bầu cử có lợi cho mình). Bởi
đó nhiều việc phân chia được sắp xếp để có lợi cho một đảng phái hay ứng cử
viên . Với tư tưởng cần phải có mối liên hệ mật thiết giữa dân chúng và Dân
Biểu, để các vị được thông báo về mọi nhu cầu của dân chúng , nhờ đó thể theo
sát mọi vấn đề địa phương , phục vụ cho lợi ích của dân chúng một cách đắc lực
và thiết thực hơn, các vị soạn thảo Hiến Pháp Philadelphia quyết định nhiệm kỳ
của Dân Biểu chỉ được kéo dài tối đa 2 năm thôi. Với nhiệm kỳ quá ngắn như vậy
, Hạ Viện có thể ở trong tình trạng bấp bênh và suy yếu. Nhưng trên thực tế ,
viễn tượng vừa kể hầu như luôn luôn được bù đấp bằng yếu tố tại chức(
incombency factor) của các vị tái ứng cữ. Trên 90% các vị tái ứng cử đều được
chọn, do vị thế tại chức của các vị đó.
Vị Dân Biểu đơn
danh được tuyển chọn tại địa phương, nên dân chúng có cơ hội quan sát và theo
dõi việc làm của người được chọn. Đồng thời là Dân Biểu đương nhiệm nên họ
không bỏ lỡ cơ hội đề làm cho uy tín cá nhân mình được nổi bật trong những việt
tiếp xúc với cữ tri của mình. Do đó vị Dân Biểu đương nhiệm được cử tri dồn
phiếu cho một cách dễ dàng Cũng do truyền thống đó, nhiều khu vực được coi là
lãnh thổ " độc tôn" cha truyền con nối của một chính đảng; ứng viên
đối lập khó mà chen chân vào được.
2 - Thượng Viện ( U.S. Senate )
Các vị soạn thảo,
trong phiên hợp Quốc Hội Lập Hiến, đã loại bỏ đề nghị của Tiểu Bang Virginia (
Virginia Plan), theo đó thì nên để cho Hạ Viện bầu ra Thượng Viện. Các vị cho
rằng như vậy thành ra Thượng Viện tùy thuộc Hạ Viện.
Sau những lần bàn
cãi, các thành viên Quốc Hội Lập Hiến đồng ý để Thượng Viện cũng là một Viện
Lập Pháp, nơi đó mỗi Tiểu Bang biểu tượng được tính cách "tối
thượng"( sovranity) của mình. Thượng Viện được mô tả như là cơ quan đại
diên chính yếu cho quyền lợi địa phương của các Tiểu Bang. George Mason, một
đại biểu trong Quốc Hội Lập Hiến cho rằng:
" Cách quan
niệm về thể thức bầu cử Thượng Viện như ở trên, diễn tả một cách mạch lạc quan
niệm về vấn đề tránh việc tập trung quá mức quyền lực vào trung ương. Bởi vì
làm như vậy, các Tiểu Bang có phương thế để bênh vực quyền lợi của mình, chống
lại những lạm quyền có thể xảy ra tại trung ương" .
Do đó, Thượng Viện
có nhiệm vụ chính yếu là bênh vực quyền lợi địa phương các Tiểu Bang tại chính
quyền trung ương.
Tu chính án thứ 18
được chấp thuận năm 1913, nói lên tính cách dân chủ hơn của các thượng Nghị Sĩ.
Các Thượng Nghị Sĩ sẽ được chọn lựa trong các cuộc tuyển cử trực tiếp ở các
Tiểu Bang.
Cuộc bầu cữ Thượng
Nghị Sĩ ở các Tiểu Bang chỉ có một đơn vị duy nhất cho mỗi Tiểu Bang. Cuộc
tuyển cử theo hình thức phổ thông đầu phiếu, ứng cử theo đơn danh và người đắc
cử phải hội được đa số tuyệt đối. Để nói lên tính cách bền vững của Thượng Viện
nhiệm kỳ của Thượng Nghị Sĩ kéo dài 6 năm, lâu hơn nhiệm kỳ của Dân Biểu ( 2
năm). Và như Hiến Pháp quy định, mổi Tiểu Bang có 2 Thượng Nghị Sĩ ở Quốc Hội.
Như vậy Tiểu Bang phải sắp xếp thế nào cho năm bầu cử chỉ trùng hợp với thời
gian mãn nhiệm của một trong hai vị Thượng Nghị Sĩ. Như vậy cứ 2 năm có một
cuộc bầu cử lại để canh tân 1/3 số nghị sĩ tại Thượng Viện.
Muốn ứng cử vào
thượng Viện, ứng viên phải là công dân Hoa Kỳ, chưa mất quyền công dân, phải có
ít nhứt là 30 tuổi, cư ngụ ít nhứt 9 năm trong lãnh thổ Hoa Kỳ và phải đang cư
ngụ trong Tiểu Bang mà mình muốn đại diện.( Điều 1, khoản III,3 Hiến Pháp Philadelphia).
Thượng Viện có 100
Thượng Nghị Sĩ ( 2 cho mỗi Tiểu Bang , 50 Tiểu Bang) . Mỗi Tiểu bang có 2
Thượng Nghị Sĩ, không kể số dân ít hay nhiều ( Alaska, Wyoming có dưới 1 triệu
dân, trong khi đó California, New York có trên 20 triệu dân).
Thượng Viện là cơ
quan Lập Pháp có tính cách ưu tú ( élite), vì Hiến Pháp quy định cho Thượng
Viện những trách vụ ở những trọng điểm chiến lược của Quốc Gia: chính sách đối
ngoại, chấp thuận hay bác bỏ việc chỉ định các nhân viên cao cấp của hành Pháp
do Tổng Thống lựa chọn như các Tổng Thư Ký Văn Phòng Phủ Tổng Thống, các Thẩm
Phán của Tối Cao Pháp Viện ( Fabbrini, op.cit. p.59).
Các thỏa ước quốc
tế được Hiến Pháp giao cho Tổng Thống ký kết, nhưng trước khi có hiệu lực phải
được Thượng Viện phê chuẩn với 2/3 tổng số phiếu. Điều đó cho thấy nguyên tắc
luật pháp Liên Bang tôn trọng quyền lợi các Tiểu Bang, mà Thượng Viện là cơ
quan đại diện. Các Tiểu Bang không có quyền hạn trong lãnh vực đối ngoại, nhưng
cho đến khi Thượng Viện, cơ quan đại diện của các Tiểu Bang chưa đồng ý, các
Tiểu Bang không có một bó buộc nào đối với những thỏa ước mà Chính Quyền Trung
Ương đã ký kết.
Cũng vậy, cho dù
Tổng Thống có quyền lựa chọn các cộng sự viên cao cấp của ông, nhưng việc lựa
chọn phải được Thượng Viện chấp thuận. Quyền chấp thuận hay bác bỏ của thượng
Viện bắt buộc Tổng Thống phải chọn người trổi vượt về khả năng cũng như đức độ.
Trước tình thế mới
ở quốc nội cũng như trên chính trường quốc tế, để đối phó kịp thời và hữu hiệu
với những tình trạng nhiều lúc khẩn cấp, Tổng Thống cần có vị thế trọng tâm
trong việc điều hành quyền lực đất nước. Do đó, nhứt là trong những năm gần
đây, Tổng Thống luôn luôn tìm cách nới rộng quyền Hành Pháp bằng khả
năng"Thông tin" và "Phủ quyết". Hoàn cảnh vừa kể thường tạo
ra đụng chạm giữa cơ quan Lập Pháp và Hành Pháp, lắm lúc thúc đẩy một viện Quốc
Hội tỏ thái độ ( thân thiện hay chống đối) đối với Hành Pháp, nhứt là trong
trường hợp " Truncated majority". Để thích ứng với hoàn cảnh và nhu
cầu, Quốc Hội dần dần cũng tìm cách thay đổi vị thế của mình. Từ vị thế điều
khiển "chuẩn y hay bác bỏ " để bắt Hành Pháp hàng động theo ý mình,
Quốc Hội có khuynh hướng kiểm soát , trông coi ( supervision) và trở thành cơ
cấu "đối thoại" có khả năng sửa đổi, hoàn hảo hoá các dự án của Hành
Pháp vì lợi ích của Quốc Gia, chỉ trong trường hợp bất khả kháng mới dùng đến
quyền phủ quyết.
IV - Chính Quyền Tiểu Bang và Chính Quyền Địa Phương.
1 - Chính Quyền Địa Phương
Thoáng nhìn qua
chúng ta sẽ thấy rằng phương thức tổ chức tuyển cử ở các Tiểu Bang hầu như đồng
nhứt như nhau, nhưng hình thức các Chính Quyền rất khác biệt , nhứt là Chính
Quyền ở cấp địa phương.
Hiến Pháp Liên
Bang chỉ nhìn nhận hai đẳng cấp Chính Quyền có quyền tối thượng: Chính Quyền
Trung Ương và Chính Quyền Tiểu Bang. Còn Chính Quyền ở cấp địa phương như thành
phố, quận, tỉnh( Township, Municipal, County) không được Hiến Pháp đề cập vì
coi đó thuộc quyền độc lập của các Tiểu Bang.
Phán quyết của Tối
Cao Pháp Viện Tiểu Bang Iowa, năm 1868 với bản án "Dillon's Rule"
quyết định như sau trong việc giải quyết sự bất đồng giữa Chính Quyền Tiểu Bang
và Chính Quyền Địa Phương:
" Bất cứ mối
nghi ngờ nào liên quan đến sự hiện hữu của quyền hành đều được giải quyết chống
lại Chính Quyền làng xã và Chính Quyền làng xã phải được coi là bị bãi
bỏ".Và cũng do bản án ngột ngạt đó mà nhiều người coi Chính Quyền Địa
Phương ở cấp tỉnh, quận, làng xã, khu phố hay thôn ấp chỉ là con đẻ của Chính
Quyền Tiểu Bang .
Điều đó có nghĩa
là Chính Quyền Địa Phương chỉ biết nhận lãnh chỉ thị và thi hành. Nhiều khi
Chính Quyền Tiểu Bang ra cả "luật đặc biệt" , tức là những chỉ thị
riêng tư nhằm sai bảo đích danh từng Chính Quyền Địa Phương một phải thi hành.
Trước tình trạng
ngột ngạt đó, " Phong Trào Canh Tân Cấp Tiến"( Progressive Reform
Movement) được thành lập, nhằm canh tân Hiến Pháp các Tiểu Bang trong phần liên
hệ đến Chính Quyền Tiểu Bang và Chính Quyền Địa Phương, giới hạn các Dân Biểu
Quốc Hội Tiểu Bang trong việc xen vào công việc của Chính Quyền Địa Phương,
bằng cách không cho họ ra luật " đặc biệt" nữa. Nhờ đó, các Tiểu Bang
bắt đầu thêm vào luật của Tiểu Bang những điều khoản " lệ nhà", tương
đương với thành ngữ " Phép vua thua lệ làng" của chúng ta, theo đó
thì các cộng đồng địa phương có quyền soạn thảo, sửa đổi , áp dụng những nội
quy địa phương, cững như Chính Quyền Địa Phương được hành xử quyền bính rộng
rãi, trong đường hướng của Hiến Pháp Liên bang và luật lệ tổng quát của Tiểu
Bang. Cộng đồng địa phương cũng có quyền chọn hình thức nào thích hợp nhứt cho
địa phương mình.
Nhưng hiện tại,
"lệ nhà"( Home Rule) , mỗi khi có đụng chạm đến Chính Quyền Tiểu Bang
đều không được điều khoản nào của Hiến Pháp bênh vực, nên tựu trung còn phải
nương dựa vào luật pháp của Tiểu Bang.Do đó mà tình trạng Chính Quyền Địa
Phương vẫn còn tùy thuộc vào Chính Quyền Tiểu Bang.
Dù sao đi nữa thì
muôn vàn hình thức Chính Quyền Địa Phương cũng đáp ứng lại một cách hữu hiệu và
xác thực nhu cầu dân chúng tại địa phương, mặc dầu còn bị nhiều ràng buộc và
giới hạn.
2 - Chính Quyền Tiểu Bang.
Các Tiểu Bang có
tiến trình tuyển cử gần như rập khuôn nhau: theo đa số tuyệt đối, đơn vị tuyển
cử đơn danh và chỉ bỏ phiều một lần.
Cách tổ chức quyền
hành cũng rất giống nhau.
a -Hành Pháp
Chúng ta có thể
dựa vào vai trò của vị Thống Đốc ( Governator) để phân loại Hành Pháp các Tiểu
Bang.
- Hệ thống Thống
Đốc yếu ( Weak Governator System).
- Hệ thống Thống
Đốc mạnh ( Strong Governator System).
Trong hệ thống
Thống Đốc yếu( Weak) vị Thống Đốc điều hành quyền Hành Pháp cùng với những
"quản trị viên"( administrator) khác, không do ông chỉ định mà do phổ
thông đầu phiếu trong Tiểu Bang tuyển chọn, hay do một Ủy Ban Tuyển Cử bỏ phiếu
cho. Số " quản trị viên" thay đổi tùy từng Tiểu Bang ( thường thì Phó
Thống Đốc có trách nhiệm về tài chánh, tư pháp và giáo dục bên cạnh vị Thống
Đốc).
Các " quản
trị viên" độc lập trong phân bộ của mình đối với Thống Đốc, cũng như đối
với những vị đặc trách ở các phân bộ khác. Thống Đốc không có quyền truất phế
họ, vì họ không do ông chọn ra mà do dân bầu lên để đặc trách phân bộ của họ.
Do đó giữa họ và Thống Đốc không có việc phối hợp để trở thành một cơ quan Hành
Pháp chung nhiệm.
Các " quản
trị viên" có thể ứng cử với tư cách độc lập hay họ có thể thuộc đảng phái
đối lập với Thống Đốc.
Nếu hình thức
Chính Quyền với Thống Đốc yếu thì toàn thể Chính Quyền không có được tư thế
mạnh để hành động . Trái lại các " quản trị viên" là những người được
trực tiếp chọn lựa để quản trị phân bộ của họ, do khả năng chuyên môn mà dân
chúng biết. Họ chịu trách nhiệm trực tiếp trước dân chúng. Như vậy tránh được
tình trạng các phân bộ bị khuynh đảo do việc các đảng phái hay phe nhóm đưa
đảng viên hay người thân tín vào để trục lợi riêng tư, bè đảng.
Trái lại trong
hình thức Thống Đốc mạnh ( Strong) thì chỉ có vị Thống Đốc là được trực tiếp
tuyển chọn. Sau đó chính ông có nhiệm vụ lựa chọn hay cách chức các viên chức
thuộc đội ngủ ( Staff ) của ông, để hợp thành cơ quan Hành Pháp do ông đứng
đầu. Nhiều Tiểu Bang bắt chước cách tổ chức của Liên Bang để tổ chức hệ thống
Thống Đốc mạnh: tập trung quyền hành và trách nhiệm vào cá nhân vị Thống Đốc.người
có nhiệm vụ điều khiển và kiểm soát Chính Quyền Tiểu Bang.
b - Lập Pháp
Cơ quan Lập Pháp
gồm Lưỡng Viện, cũng với thể thức bầu cử đơn vị tuyển cử đơn danh và đa số
tuyệt đối.
Thượng Viện và Hạ
Viện ( Tiểu Bang ) đều có số Thượng Nghị Sĩ và Dân Biểu thay đổi tùy Tiểu Bang.
Cách chung Thương Viện có số Thượng Nghị Sĩ ít hơn số Dân Biểu ở Hạ Viện.
Thượng Viện ở Alaska có 20 Thượng Nghị Sĩ, Minnesota có 67. Hạ Viện
có nhiều Dân Biểu hơn : Alaska và Nevada có 40 Dân
Biểu, New Hampshire
có 400. Ở nhiều Tiểu Bang Dân Biểu có nhiệm kỳ 2 năm, còn Thượng Nghị sĩ 4 năm.
Bài liên quan:
- Vài nét về Hiến pháp Mỹ (Hà Văn Thịnh - BoxitVN).
- KIẾN NGHỊ VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992 (BoxiVN/
Ba Sàm).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét