How Did the Gates of Hell Open in Vietnam?
Kак открылись врата ада во Вьетнаме?
Jonathan Schell
Nguồn: inosmi.ru
Kichbu
posted on 25.01.2013
Vậy đã nửa thế
kỷ nay chúng ta tranh cãi về “cuộc chiến tranh Việt Nam”. Liệu có thể xảy ra điều mà
chúng ta không biết chúng ta đang nói về cái gì? Sau tất cả những gì đã viết (
gần 30 000 cuốn sách và số lượng
của chúng đang tăng lên), điều này có vẻ khó xảy ra, nhưng hóa ra rằng nó chính là như thế trong thực tế theo đúng
nghĩa.
Và bây giờ, trong
một cuốn sách với tên gọi "Hãy bắn tất cả những gì đang chuyển động” (Kill
Anything that Moves) Nick Turse lần đầu tiên tạo ra một bức tranh toàn diện của
cuộc chiến tranh, ông đã khéo léo và với sự đàng hoàng viết rằng trong thực tế
các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ đã làm gì ở Việt Nam. Những phát hiện của ông
tiết lộ sự thật gần như không thể tưởng tượng được. Cẩn thận đưa thông tin bí mật
vào một chỉnh thể, và mới đây trở nên dễ truy cập, - các hồ sơ của các tòa án
chiến trường, các báo cáo của Pentagon, các bài phỏng vấn với những người trực
tiếp tham gia các sự kiện ở Việt Nam và ở Hợp chúng quốc, cũng như báo chí thời
bấy giờ và các tài liệu khoa học, - Turse cho thấy rằng những chi tiết của
tàn phá, giết người, thảm sát, hãm hiếp và tra tấn, mà trước đây chúng
được xem là các hành vi bạo lực cô lập, trên thực tế là chuẩn mực, và tất cả
điều này đã trở thành một dòng liên tục của bạo lực, năm này qua năm khác, đổ
xuống đất nước này.
Trong số những
phẩm chất lớn của Turse có thể liệt thêm rằng ông đã có thể hiểu: nhờ tính chất
đặc biệt của cuộc chiến tranh này, hiện thực trực tiếp của nó - một bức tranh chính xác và toàn diện những gì
về bình diện thể chất xảy ra tại chỗ các sự kiện - nó chưa bao giờ được tập hợp
lại với nhau; rằng với trí tưởng tượng và nhiều năm làm việc kiên nhẫn, điều
này đã có thể hoàn thành; và rằng thậm chí sau nửa thế kỷ qua khi cuộc chiến
tranh đó bắt đầu, công việc này vẫn còn cần được tiến hành. Turse thừa nhận
rằng ngay cả bây giờ không đủ dữ liệu để trình bày toàn bộ bức tranh về mặt số
liệu thống kê. Dĩ nhiên, ông dẫn ra một
số lượng lớn các con số - chẳng hạn, những đánh giá kinh ngạc liên quan đến
việc trong thời gian chiến tranh gần hai triệu thường dân đã bị giết chết và
gần năm triệu người bị thương, rằng Hoa Kỳ đã thực hiện 3,4 triệu phi vụ, rằng
họ đã sử dụng khoảng 14 tỷ kilogam đạn dược, mà chúng về toàn bộ sức công phá
tương đương 640 quả bom ném xuống Hiroshima.
Tuy vậy tất cả
những điều này không đủ để chỉ đơn giản là tập hợp đủ số lượng các chứng cứ cần
thiết của những tội ác đã gây ra. Vì vậy, cung cấp một cách phong phú các bằng
chứng trực tiếp, ông nói còn bổ sung thêm phương pháp sau đây. Giống như tấm
vải, hiện thực xã hội - thành phố, trường đại học, cuộc cách mạng, chiến tranh
- có sơ đồ và và kết cấu của chúng.
Không có sự thật nào là ốc đảo. Mỗi chứng cứ có một ẩn ý phong phú, mà nó, có
thể nói, liên quan với một không gian của các yếu tố bao quanh. Và khi sự kiện
khác được xác nhận, chúng bắt đầu mở ra các sơ đồ và kết cấu khác mà chúng ta
đang nói đến.
Turse thường xuyên
mời gọi chúng ta đặt câu hỏi mỗi sự kiện có một bức tranh quy mô lớ hơn ở mức
độ nào. Chẳng hạn thế này, ông viết:
"Nếu một
người và nhóm nhỏ của nó báo cáo về số lượng những người bị giết trong trận
đánh nhiều hơn cả một tiểu đoàn, thì điều này không khiến các cấp chỉ huy lo
lắng; nếu chỉ huy của một lữ đoàn có thể tăng số lượng các tử thi, những dân
thường bị sát hại bởi máy bay trực thăng của mình mà không bị trừng phạt; nếu
một vị tướng cấp cao có thể biến những hành động tàn bạo với sự hỗ trợ của việc
sử dụng một cách điên cuồng hỏa lực mạnh hơn trong khu vực có nhiều thường dân
thành chuyện bình thường – thì có thể trông đợi gì ở cấp thấp nhất, đặc biệt ở
những lính bộ binh trẻ tuổi được trang bị vũ khí đến tận răng, hoạt động trong
những điều kiện chiến đấu trong thời gian nhiều tuần, hung dữ, mệt mỏi và sợ
hãi, thường không có khả năng xác định được vị trí của đối phương, nhưng thường
xuyên bị đốc thúc giết người?
Như mạng lưới đang
bị kéo căng, mạng của những câu chuyện và những thông tin được lượm lặt từ vô
số các nguồn tin kết hợp lại thành bức chân tranh xác thực, tất nhiên của chiến
tranh - bức tranh mà bạn, như người Mỹ, không muốn nhìn thấy, và khi đã nhìn
thấy, bạn sẽ muốn quên nó, nhưng bạn không nên quên điều này; và các sự kiện
buộc bạn phải xem và ghi nhớ và xem xét khi bạn tự hỏi mình Hoa Kỳ đã làm những
gì trong nửa thế kỷ qua, và tiếp tục làm
và sẽ tiếp tục hài lòng điều gì.
Mảnh đất
bị thiêu hủy ở khu vực của quân đoàn I
Quan điểm của tôi về những vấn đề này ở mức độ cao nhất vô cùng đặc biệt. Vào đầu tháng 8 năm 1967, tôi đến quân đoàn I, khu vực cực bắc của các hoạt động quân sự của Mỹ trên lãnh thổ mà trước đây gọi là Nam Việt Nam. Tôi chuẩn bị viết cho tạp chí New Yorker bài báo về "Cuộc chiến tranh trên không". Cụm từ này thật sai lầm. Ở kẻ thù Việt Nam, dĩ nhiên, không có cơ hội nào trên không ở phía nam đất nước, và bởi vậy không có “một cuộc chiến tranh nào trên không” theo đúng nghĩa đen ở đó.
Và ở đó chí có những cuộc ném bom đơn phương vào những vùng lãnh thổ và con người được tiến hành với sự hỗ trợ của tập hợp tuyệt vời các máy bay của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Từ máy bay ném bom B-52 phá hủy tất cả mọi thứ trên diện tích chiều dài một dặm và chiều rộng bằng vài sân bóng đá; cho đến các máy bay tiêm kích-ném bom có khả năng, ngoài những thứ khác, ném những quả bom 250 kg và thùng napalm, cho đến "Douglas» DC-3 cải tiến, được trang bị pháo có thể bắn 100 viên đạn trong một phút, cho đến các tốp máy bay trực thăng lớn và nhỏ có mặt khắp nơi, dày đặc trên bầu trời Việt Nam. Thêm vào tất cả những điều này còn có hỏa lực của pháo binh bắn liên tục vào các vùng "bắn tự do” («free-fire» zones), pháo kích từ các chiến hạm nằm cách bờ không xa.
Quan điểm của tôi về những vấn đề này ở mức độ cao nhất vô cùng đặc biệt. Vào đầu tháng 8 năm 1967, tôi đến quân đoàn I, khu vực cực bắc của các hoạt động quân sự của Mỹ trên lãnh thổ mà trước đây gọi là Nam Việt Nam. Tôi chuẩn bị viết cho tạp chí New Yorker bài báo về "Cuộc chiến tranh trên không". Cụm từ này thật sai lầm. Ở kẻ thù Việt Nam, dĩ nhiên, không có cơ hội nào trên không ở phía nam đất nước, và bởi vậy không có “một cuộc chiến tranh nào trên không” theo đúng nghĩa đen ở đó.
Và ở đó chí có những cuộc ném bom đơn phương vào những vùng lãnh thổ và con người được tiến hành với sự hỗ trợ của tập hợp tuyệt vời các máy bay của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Từ máy bay ném bom B-52 phá hủy tất cả mọi thứ trên diện tích chiều dài một dặm và chiều rộng bằng vài sân bóng đá; cho đến các máy bay tiêm kích-ném bom có khả năng, ngoài những thứ khác, ném những quả bom 250 kg và thùng napalm, cho đến "Douglas» DC-3 cải tiến, được trang bị pháo có thể bắn 100 viên đạn trong một phút, cho đến các tốp máy bay trực thăng lớn và nhỏ có mặt khắp nơi, dày đặc trên bầu trời Việt Nam. Thêm vào tất cả những điều này còn có hỏa lực của pháo binh bắn liên tục vào các vùng "bắn tự do” («free-fire» zones), pháo kích từ các chiến hạm nằm cách bờ không xa.
Tại thời điểm tôi
đến, sự phá hủy các làng mạc trong khu vực này và dồn dân của chúng vào các
trại dành cho những người tị nạn thảm thương gần kết thúc (tuy vậy người Việt
Nam thường trở về làng quê của họ bị bom đạn phá hủy và sau điều đó trở thành
mục tiêu của hỏa lực pháo binh bắn phá bừa bãi). Chỉ còn lại vài ngôi làng. Tôi
đã chứng kiến sự tàn phá của nhiều làng
mạc trong số đó ở các tỉnh Quang Ngai và
Quang Tinh, và quan sát điều này từ ghế sau của những chiếc máy bay Cessna nhỏ,
mà người ta gọi chúng là những máy bay kiểm soát trên không của căn cứ tiền
tiêu.
Trong khi chúng
tôi ngày này qua ngày khác bay trên bầu trời, tôi thấy những chuỗi dài của các
ngôi nhà bao trùm trong biển lửa mà những người lính đi qua đốt cháy hết ngôi nhà này đến ngôi nhà khác
khi thực hiện nhiệm vụ của mình trong khu vực hoạt động. Đôi khi các máy bay
kiểm soát không trung của căn cứ tiền tiêu không kích theo các yêu cầu nhận
được qua radio từ các đơn vị mặt đất. Trong các hoạt động trước đó, dân làng đã
bị trục xuất ra khỏi các khu vực này và bị đẩy đến các trại tập trung. Nhưng
lần này không có mệnh lệnh sơ tán, và dân chúng trở thành mục tiêu của các cuộc
tấn công ác liệt từ mặt đất và từ trên không. Các điểm dân cư nông thôn đã bị
phá hủy hoàn toàn trước mặt tôi.
Vì vậy, các kết quả chung của các hành động của Mỹ tại khu vực của quân đoàn I đã được nhìn thấy và chúng có thể ước tính được từ trên không. Chính sách tiêu thổ đã tuyên bố bải bỏ, nhưng kết quả của nó làm mặt đất bị thiêu rụi. Tuy nhiên, trong vấn đề nan giải này còn thiếu thêm một khâu. Tôi đã không có cơ hội trực tiếp quan sát các hoạt động quan trọng hơn trên mặt đất. Tôi cố gắng phỏng vấn một số binh sĩ, nhưng họ không muốn nói, mặc dù một trong số họ ám chỉ về những vụ việc đáng ngờ. "Cậu sẽ không tin điều này, vì vậy tôi sẽ không kể với cậu đâu, - anh lính nói với tôi. - Không ai và không bao giờ có thể biết được những chuyện như thế, và thậm chí ngay cả khi chiến tranh kết thúc và tất cả chúng ta về nhà, không ai sẽ không bao giờ biết về điều đó".
Vì vậy, các kết quả chung của các hành động của Mỹ tại khu vực của quân đoàn I đã được nhìn thấy và chúng có thể ước tính được từ trên không. Chính sách tiêu thổ đã tuyên bố bải bỏ, nhưng kết quả của nó làm mặt đất bị thiêu rụi. Tuy nhiên, trong vấn đề nan giải này còn thiếu thêm một khâu. Tôi đã không có cơ hội trực tiếp quan sát các hoạt động quan trọng hơn trên mặt đất. Tôi cố gắng phỏng vấn một số binh sĩ, nhưng họ không muốn nói, mặc dù một trong số họ ám chỉ về những vụ việc đáng ngờ. "Cậu sẽ không tin điều này, vì vậy tôi sẽ không kể với cậu đâu, - anh lính nói với tôi. - Không ai và không bao giờ có thể biết được những chuyện như thế, và thậm chí ngay cả khi chiến tranh kết thúc và tất cả chúng ta về nhà, không ai sẽ không bao giờ biết về điều đó".
Nói cách khác, như
nhiều phóng viên khác ở Việt Nam,
tôi chỉ có thể nhìn thấy một phần của cuộc chiến tranh. Những gì tôi thấy thật
khủng khiếp, nhưng điều này vẫn không đủ để làm cơ sở cho những khát quát liên
quan đến việc tiến hành cuộc chiến tranh nói chung. Chỉ vài năm sau, vào năm
1969, nhờ hành động cương quyết của một người lính can đảm Ron Ridenhour, cũng
như sự kiên trì của phóng viên Seymour Hersh một phần của sự thật về hoạt động
mặt đất tại khu vực của quân đoàn I được công bố.
Đó là nói về cuộc
tàn sát đẫm máu ở My Lai (My Lay), hơn 500 dân thường đã bị sát hại bởi những
binh lính máu lạnh của “đại đội Charlie”, tiểu đoàn 1, sư đoàn bộ binh 20.
Trong những năm tiếp theo, nhưng thông tin về các hành động tàn bạo khác trong
khu vực đó bị rò rỉ cho báo chí, điều này thường xảy ra nhiều năm sau chính các sự kiện. Chẳng hạn, trong năm 2003
tờ báo Toledo Blade đã kể về chiến dịch tra tấn và giết chóc mà nó kéo dài đến
vài tháng, cũng như về vụ tử hình nhanh chóng và bất hợp pháp hai người mù bởi
nhóm “trinh sát” có tên gọi "Tiger Force”. Tuy nhiên một bức tranh hoàn
chỉnh mang tính khái quát các chiến dịch mặt đất đã không có.
Tình hình như vậy tiếp tục cho đến khi cuốn sách của Turse được xuất bản, và hiện thực hàng ngày lúc bấy giờ, mà một phần của nó là tất cả các hành động bạo tàn này, đã hoàn toàn trở thành tài sản công khai. Hầu như lập tức ngay sau khi quân lính Mỹ đến khu vực của quân đoàn I đã xác lập những hình mẫu của hành vi bạo lực. Hóa ra, vụ thảm sát đẫm máu tại ngôi làng My Lai là sự kiện duy nhất về số lượng những người bị sát hại.
Turse dẫn ra một
cuộc tàn sát đẫm máu vào tháng Mười năm 1967 tại một ngôi làng có tên gọi gọi
là Trieay (Trieu Ai) với tư cách là bảng hình thái. Đại đội thủy quân lục chiến
bị tổn thất vì va phải bẫy-mìn gần ngôi làng đó mà trên thực tế vài ngày trước khi
xảy ra điều này đã bị đốt cháy gần như hoàn toàn bởi lính Mỹ. Tuy nhiên, một số
người dân của nó trở lại nhà cửa của mình. Và lúc bấy giờ lính thủy quân lục
chiến, tức giận vì những tổn thất, nhưng không thể tìm thấy kẻ thù, đã vào
làng, bắn từ súng M-16, đốt cháy những ngôi nhà còn sót lại và thậm chí ném lựu
đạn vào những căn hầm tránh bom.
Một lính thủy quân lục chiến đưa một người phụ nữ ra cánh đồng và bắn bà ở đó. Một người khác thông báo rằng trong hầm trú ẩn đã bị phá sập có trẻ em. Chỉ huy của họ đáp: “Tôi kệ thây chúng, nếu chúng lớn lên, chúng cũng theo Việt Cộng”. Năm hoặc mười người chạy ra khỏi hầm trú ẩn khi quả lựu đạn ném xuống. Tất cả họ đã bị bắn. Turse bình luận:
Một lính thủy quân lục chiến đưa một người phụ nữ ra cánh đồng và bắn bà ở đó. Một người khác thông báo rằng trong hầm trú ẩn đã bị phá sập có trẻ em. Chỉ huy của họ đáp: “Tôi kệ thây chúng, nếu chúng lớn lên, chúng cũng theo Việt Cộng”. Năm hoặc mười người chạy ra khỏi hầm trú ẩn khi quả lựu đạn ném xuống. Tất cả họ đã bị bắn. Turse bình luận:
"Trong vụ
Trieu Ai có thể nhìn thấy gần như toàn
bộ cuộc chiến tranh ở dạng thu nhỏ. Những trận không kích và pháo binh bắn phá
liên tục… Ở đó xảy ra những vụ đốt nhà của nông dân có chủ tâm và dồn dân vào các trại tị nạn ... Những người lính hung
dữ sẵn sàng tấn công vào ai tùy thích, và thường đó là những phản ứng vì những
tổn thất của đơn vị của họ; và họ rình rập thường dân trên đường mòn; các sĩ quan tại khu vụ tác chiến ra những mệnh lệnh mơ hồ hoặc bất hợp pháp
với đám người trẻ tuổi đã quen phục tùng – đó là cơ sở của công thức của nhiều
vụ giết người hàng loạt được thực hiện bởi các đơn vị bộ binh và thủy quân lục
chiến.
Những hành động dã man thường chứng minh mức độ cao nhất của sự băng hoại đạo đức: những vụ tra tấn vô căn cứ, tập bắn người thay cho bia huấn luyện, giết hại trẻ em, kể cả trẻ em nhỏ tuổi, hãm hiếp tập thể. Hãy xem xét những hành động rất điển hình sau đây của đại đội B, tiểu đoàn 1, sư đoàn bộ binh 35 vào tháng Mười năm 1967:
Những hành động dã man thường chứng minh mức độ cao nhất của sự băng hoại đạo đức: những vụ tra tấn vô căn cứ, tập bắn người thay cho bia huấn luyện, giết hại trẻ em, kể cả trẻ em nhỏ tuổi, hãm hiếp tập thể. Hãy xem xét những hành động rất điển hình sau đây của đại đội B, tiểu đoàn 1, sư đoàn bộ binh 35 vào tháng Mười năm 1967:
"Đại đội bỗng
gặp một thanh niên trẻ không vũ khí. Người nào đó tóm được anh ta trên đồi và
kéo xuống, và trung úy hỏi ai muốn bắnnanh ta…”,- nhân viên quân y Jamie
Henry sau đó đã kể cho các điều tra viên
của quân đội. Một nhân viên vô tuyến và và một lính quân y xin nhận làm việc
này. Nhân viên vô tuyến… "đá vào bụng cậu bé, sau đó lính quân y đưa anh
ta ra phía sau một tảng đá, và tôi nghe người đó đã bắn cả một băng đạn như thế nào…”
"Vài ngày sau
khi vụ việc xảy ra, những người lính của cũng của đơn vị đó đã tra tấn một ông
già cho đến chết, và sau đó đã ném ông xuống từ vách đá, mà không biết ông còn
sống hoặc đã chết..."
"Hai ngày sau họ đã sử dụng một người đàn ông không có vũ khí làm mục tiêu tập bắn..."
"Và sau chưa đầy hai tuần, các binh sĩ của đại đội B, như họ nói, đã giết năm người phụ nữ tay không..."
"Các binh sĩ của đơn vị này công khai kể nhiều câu chuyện khác về các hành vi tàn bạo do đại đội gây ra, bao gồm cả một người phụ nữ đã bị cắt tai của mình, còn đứa bé bị ném xuống đất và họ dùng chân đạp lên nó ..."
Tăng số lượng tử thi
Đối với tôi, những
phát hiện của Turse đã hoàn thành bức tranh của cuộc chiến tranh tại khu vực
của quân đoàn I. Cho dù chính sách có thế nào đi nữa trong lý thuyết, hiện thực
trên mặt đất cũng như trên không, là mảnh đất bị cháy xém, mà tôi thấy từ
máy bay kiểm soát trên không của căn cứ tiền
tiêu. Cho dù Hợp chúng quốc hình dung
những hành động của mình ở khu vực của quân đoàn I thế nào đi nữa, trên thực tế
họ tiến hành cuộc chiến tranh có hệ thống chống những người dân địa phương.
Và, như Turse dựa vào rất nhiều tài liệu chỉ ra một cách có thuyết phục cũng như thực tế tình hình khắp cả nước như thế. Những chi tiết có thể khác nhau, nhưng bức tranh nói chung như ở khu vực của quân đoàn I. Điều này cũng liên quan cho các hoạt động quân sự tại châu thổ Mekong với những con sông và kênh rạch, nơi có 6 triệu người sinh sống trên vùng lãnh thổ với diện tích chưa đầy 24.000 km vuông. Vào tháng Hai năm 1968, Tướng Julian Ewell, người nổi tiếng vào thời gia đó như "đao phủ của châu thổ", được bổ nhiệm làm chỉ huy của Sư đoàn bộ binh số 9.
Và, như Turse dựa vào rất nhiều tài liệu chỉ ra một cách có thuyết phục cũng như thực tế tình hình khắp cả nước như thế. Những chi tiết có thể khác nhau, nhưng bức tranh nói chung như ở khu vực của quân đoàn I. Điều này cũng liên quan cho các hoạt động quân sự tại châu thổ Mekong với những con sông và kênh rạch, nơi có 6 triệu người sinh sống trên vùng lãnh thổ với diện tích chưa đầy 24.000 km vuông. Vào tháng Hai năm 1968, Tướng Julian Ewell, người nổi tiếng vào thời gia đó như "đao phủ của châu thổ", được bổ nhiệm làm chỉ huy của Sư đoàn bộ binh số 9.
Vào tháng Mười hai
năm 1968, ông bắt đầu chiến dịch “Speedy Express”. Số lượng tử thi được quy
định trước bởi chỉ huy cấp cao như thông số để đo sự tiến bộ đạt được chiến
thắng là chuyên môn hóa của ông và đạt đến độ bị ám ảnh. Về mặt lý thuyết, chỉ
những người lính đối phương bị giết chết mới được tính vào tống số - bất kỳ
người nào, binh lính hoặc sĩ quan, nhanh chóng hiểu điều này chỉ sau ba mươi
phút trong điều kiện tác chiến, - nhưng
trong thực tế, tất cả những người Việt Nam, mà đa số họ là thường dân, được đưa
vào các danh sách cuối cùng. “Số lượng xác chết” ở sĩ quan cao bao nhiêu, thì
cơ hội thăng chức của người đó lớn bấy nhiêu. Những người lính trơn đưa ra những
danh sách dài người Việt Nam
bị họ giết chết được thưởng kỳ nghỉ ngắn ngày ở quê nhà. Ewell dự định tăng hệ
số những người lính của đối phương bị
giết để đáp lại số lính Mỹ bị thương vong.
Áp lực trong lĩnh
vực này đã tăng lên ở tất cả các cấp của Sư đoàn 9. Một trong những chỉ huy
tham mưu đã “hóa điên” như một tham mưu trưởng
khác thay ông kể lại.
Các phương pháp này rất đơn giản: gia tăng đáng kể hỏa lực mạnh và thiếu nó, cũng như mềm hóa “các quy tắc tiến hành tác chiến”, bao gồm, chẳng hạn, nhờ tính việc tiến hành số lượng lớn các cuộc đột kích ban đêm. Trong một trong những chi tiết bay đêm, các máy bay trực thăng «Cobra» bay là mặt đất đã tấn công một đàn trâu châu Á và bảy đứa trẻ chăn dắt chúng. Tất cả đều bị giết, và về những trẻ em này được thông báo như quân địch bị giết trong cuộc giao tranh.
Các phương pháp này rất đơn giản: gia tăng đáng kể hỏa lực mạnh và thiếu nó, cũng như mềm hóa “các quy tắc tiến hành tác chiến”, bao gồm, chẳng hạn, nhờ tính việc tiến hành số lượng lớn các cuộc đột kích ban đêm. Trong một trong những chi tiết bay đêm, các máy bay trực thăng «Cobra» bay là mặt đất đã tấn công một đàn trâu châu Á và bảy đứa trẻ chăn dắt chúng. Tất cả đều bị giết, và về những trẻ em này được thông báo như quân địch bị giết trong cuộc giao tranh.
Hệ số những người
lính của đối phương bị giết tăng vọt từ trị số cao đáng ngờ (24 "Việt
Cộng" đổi một người Mỹ bị thiệt mạng) đến các chỉ số hoàn toàn siêu thực -
134 Việt Cộng cho một người Mỹ. Tuy nhiên, có điều gì đó không thể tưởng tượng
trong các chỉ số bị thổi phồng một cách đơn giản, mà ở trong sự đồng nhất các tử
thi. Chủ yếu đó không phải là chiến binh
địch, mà là dân thường. "Trung sĩ bận trí”, phản đối trong một bức thư nặc
danh gửi các chỉ huy cấp cao của mình vào thời điểm đó, đã mô tả các kết quả của các hành động của binh
lính, mà bản thân anh ta nhìn thấy:
"Tiểu đoàn đã
giết chết, có thể, 15 hoặc 20 người một ngày. Nếu bốn tiểu đoàn trong lữ đoàn,
thì con số này, có thể, sẽ là 40 đến 50
người một ngày, hoặc 1200 - 1500 một tháng – quá dễ dàng! (Một tiểu đoàn báo
cáo gần 1000 xác chết mỗi tháng). Nếu tôi chỉ đúng 10% - các ngài hãy tin tôi,
rằng trong thực tế chúng còn nhiều hơn nữa – thì tôi đang cố gắng kể cho các ngài
về khoảng 120-150 vụ thảm sát, có nghĩa là có một My Lai mỗi tháng, và cứ như
thế kéo dài hơn một năm ".
Mức độ đánh giá
như vậy đã được xác nhận bởi các nghiên cứu sau này. Các chiến dịch được tiến
hành ở khu vực của quân đoàn I, có lẽ, phụ thuộc nhiều hơn vào các hoạt động
của bộ binh được yểm trợ bởi các cuộc không kích, trong khi chiến dịch “Speedy
Express” lại phụ thuộc nhiều hơn vào các cuộc tấn công từ máy bay trực thăng,
và trong trường hợp này số lượng tử thi sẽ phải cao hơn, nhưng kết quả lại
giống nhau: cuộc chiến tranh không quy cũ và không bị kiềm chế bởi bất kỳ những
tư tưởng nào hoặc bởi tính nhân đạo, liên quan đến người dân Nam Việt Nam.
Turse nhắc nhở
chúng ta rằng ngoài phạm vi khu vực dã chiến, bạo lực không kiểm soát được -
chẳng hạn như việc sử dụng xe tải quân sự cán chết những người Việt Nam để tiêu khiển – đã phổ biến
rộng rãi. Những tên gọi quen thuộc của người Việt Nam gắn liền với những từ ngữ phân biệt chủng tộc – “súc gỗ”, “mặt
đần”, “mắt xếch”. Ngoài ra, bộ máy quân
sự của Mỹ còn được bổ sung hệ thống nhà tù Mỹ-Nam Việt Nam, mà ở đó tra tấn là thủ tục
tiêu chuẩn, và hành quyết ngoài vòng pháp luật – hiện tượng phổ biến.
Làm sao điều này lại xảy ra? Là một quốc gia, tuân thủ, như nó tự xưng, các nguyên tắc cao thượng lại cho phép vượt qua bề mặt của sự dã man này, và sau đó còn dung dưỡng nó tiếp tục những hành động của mình trong hơn mười năm?
Làm sao điều này lại xảy ra? Là một quốc gia, tuân thủ, như nó tự xưng, các nguyên tắc cao thượng lại cho phép vượt qua bề mặt của sự dã man này, và sau đó còn dung dưỡng nó tiếp tục những hành động của mình trong hơn mười năm?
Tại sao, khi thủy
quân lục chiến đến khu vực của quân đoàn I vào đầu năm 1965, nhiều người trong
số họ gần như ngay lập tức gạt sang một bên các quy tắc tiến hành chiến tranh,
cũng như tất cả những nghi ngờ thông thường cũng giảm xuống mức thấp nhất đến
man rợ? Các mối liên hệ nhân quả và các lực lượng đã gắn chặt những chàng trai "xứng đáng nhất và
thông minh nhất" từ các trường trường đại học và các tập đoàn nổi tiếng
của Mỹ với việc giết hại những đứa bé và những con trân của chúng ở châu thổ sông
Mekong?
Những cánh cổng này đã mở bằng cách nào? Câu hỏi này khác với câu hỏi thường nêu ra –bằng cách nào Hoa Kỳ can thiệp vào chiến tranh ở Việt Nam? Tôi không kỳ vọng để thực hiện công lý ở đây. Đạo đức và căn bệnh say sóng nhận thức (cognitive), đi kèm cuộc chiến tranh ở Việt Nam ngay từ đầu, ngày càng làm chúng ta bất an. Tuy nhiên cuốn sách "Hãy bắn tất cả những gì đang chuyển động” cho phép chúng ta ít nhất nêu lên câu hỏi này dưới ánh sáng của những sự kiện chân thực của vụ việc này.
Những cánh cổng này đã mở bằng cách nào? Câu hỏi này khác với câu hỏi thường nêu ra –bằng cách nào Hoa Kỳ can thiệp vào chiến tranh ở Việt Nam? Tôi không kỳ vọng để thực hiện công lý ở đây. Đạo đức và căn bệnh say sóng nhận thức (cognitive), đi kèm cuộc chiến tranh ở Việt Nam ngay từ đầu, ngày càng làm chúng ta bất an. Tuy nhiên cuốn sách "Hãy bắn tất cả những gì đang chuyển động” cho phép chúng ta ít nhất nêu lên câu hỏi này dưới ánh sáng của những sự kiện chân thực của vụ việc này.
Những lập luận
kiểu này, tất nhiên, sẽ là thích hợp trong một đất nước mà nó sau Việt Nam đã
làm tất cả những điều có thể để quên đi những bài học rút ra từ thảm họa, trong
quá trình chuẩn bị cho các cuộc chiến tranh nhục nhã khác, trong đó có Iraq và
Afghanistan. Đây là một số suy nghĩ nêu lên như những suy ngẫm thành tiếng.
Cuộc chiến tranh hư cấu và thực tế
Khoảng từ thời điểm xuất hiện thông tin về vụ thảm sát ở làng My Lai, vấn đề liệu những tội ác đó có phải là sản phẩm quyết định của quân nhân tại chiến trường hay là kết quả của chính trị cao và những mệnh lệnh xuất phát từ chính giới chóp bu bắt đầu được bàn luận. Câu hỏi này đã được đặt ra còn thế này nữa – đó là những tính toán sai lầm hay “các chiến dịch”? Các đại diện của xu hướng đầu tiên nghiêng về phương án của Một quả táo bị thối trong thùng, tức là trường hợp duy nhất và lên án các đơn vị riêng biệt vì hành vi không thể chấp nhận được và đồng thời rũ bỏ trách nhiệm của những lãnh đạo cấp cao. Những người ủng hộ cách giải thích thứ hai không có xu hướng cáo tội các quân nhân và đổ lỗi cho những nhà lãnh đạo của họ.
Khoảng từ thời điểm xuất hiện thông tin về vụ thảm sát ở làng My Lai, vấn đề liệu những tội ác đó có phải là sản phẩm quyết định của quân nhân tại chiến trường hay là kết quả của chính trị cao và những mệnh lệnh xuất phát từ chính giới chóp bu bắt đầu được bàn luận. Câu hỏi này đã được đặt ra còn thế này nữa – đó là những tính toán sai lầm hay “các chiến dịch”? Các đại diện của xu hướng đầu tiên nghiêng về phương án của Một quả táo bị thối trong thùng, tức là trường hợp duy nhất và lên án các đơn vị riêng biệt vì hành vi không thể chấp nhận được và đồng thời rũ bỏ trách nhiệm của những lãnh đạo cấp cao. Những người ủng hộ cách giải thích thứ hai không có xu hướng cáo tội các quân nhân và đổ lỗi cho những nhà lãnh đạo của họ.
Cuốn sách của Turse cho thấy rằng đó không phải là
những trường hợp hoàn toàn cá biệt trong quân đội. Ngay từ đầu, ông đã không
đồng ý với những người cho rằng đó là "một tính toán sai lầm". Có lẽ,
nguyên nhân luôn luôn nằm ở chỗ rằng các phương án lựa chọ được dẫn ra đã thể
hiện không chính xác tình hình. Mối quan hệ giữa chính sách và thực hành, hóa
ra, ở Việt Nam
lại rất cụ thể hơn cả hai phương án đề ra.
Người ta thường nói rằng sự thật là nạn nhân đầu tiên trong chiến tranh. Tuy nhiên, ở Việt Nam Hoa Kỳ không chỉ nói một đằng, làm một nẻo (ví dụ, hủy diệt những ngôi làng, và khẳng định rằng bảo vệ chúng), mặc dù điều đó cũng đúng. Nói đúng hơn là, ngay từ đầu cấu trúc quân sự đã được thiết lập với mục đích áp đặt quan niệm chính thống sai lầm cho một hiện thực có tính chất hoàn toàn khác.
Trong cuộc chiến
tranh chính thức, nhân dân miền Nam Việt Nam
chống lại những nỗ lực của Bắc Việt Nam để khuất phục nó vì chủ nghĩa
cộng sản thế giới. Hợp chúng quốc dường như đã giúp đỡ họ trong cuộc kháng
chiến yêu nước của họ. Trong thực tế, đa số người dân Nam Việt Nam, đặc biệt là
những người tích cực về mặt chính trị là những người theo chủ nghĩa dân tộc
mong muốn đánh đuổi những kẻ xâm lược nước ngoài, đầu tiên là Pháp, tiếp theo
là Nhật Bản và sau đó người Mỹ, cùng với nhà nước bạn hàng của họ - chính phủ
Nam Việt Nam, một chính phủ vào thời điểm đó không có một độc lập nào trong một
quốc gia mà nó giả định xem là của mình. Kiến giải chính thức giả dối đã không
được thêm vào sau này để che giấu thực tế
khó chịu; nó được chuẩn bị cho bộ máy này ngay từ đầu tiên nhất.
Thật ra, sự va
chạm của hiện thực và chính sách lần đầu tiên đã diễn ra tại làng Trieu Ai và các
điểm dân cư khác tương tự. Quân đội Mỹ, bao gồm chỉ huy tại chỗ, phải đối mặt
với thực tế mà họ đã không được nhìn thấy trong nhiều năm. Những người lính đã
hy vọng rằng họ sẽ được đón chào như những giải phóng quân, nhưng trong thực
tế, họ bị bao vây bởi một biển thù địch gần như khắp mọi nơi.
Ở Washington không hề đưa
ra bất kỳ những hướng dẫn nào phải làm gì với tình huống bất ngờ này. Quyết
định vấn đề được trao cho những người lính. Tại các khu vực khác nhau của đất
nước họ bắt đầu ứng tác. Trong ý nghĩa này, chính sách này thực sự đã được thực
hiện trong những điều kiện dã chiến. Tuy nhiên, các binh sĩ đã không có khả
năng thay đổi nó, họ không thể, chẳng hạn, ngừng tham gia vào hoạt động được
tính toán kém cỏi này. Họ chỉ có thể đáp ứng với những hoàn cảnh bất ngờ, mà họ
lâm vào.
Kết quả là, đấu
pháp của sứ mệnh không hiểu được và không thể được bị áp đặt từ trên xuống (để
chinh phục “những trái tim và khối óc” của dân chúng mà họ chủ yếu là thù ghét,
bằng cách chà đạp xã hội của đất nước này), và bằng những mệnh lệnh đôi khi mơ
hồ và bất hợp pháp được chấp nhận tại chỗ, những mệnh lệnh mà chúng để lại
nhiều chỗ cho sự ứng tác có ý thức được thúc đẩy bởi cảm giác trả thù. Trong sự
chênh lệch giữa sự hư cấu của chính trị cao và tính cấp bách của cuộc chiến
tranh hiện thực, cuộc tấn công vô
nghĩa và kinh tởm chống nhân dân Việt Nam bắt đầu.
Tính chất ngẫu
hứng của toàn bộ chuyện này, như Turse nhấn mạnh, có thể nhận thấy trong thực tế rằng việc hành xử tàn khốc với
thường dân đã lan rộng, nhưng không thường xuyên. Ông đã khát quát những gì người dân của một trong
những làng mạc ở một khu vực của Việt Nam bị bom đạn tàn phá không thương
tiếc kể lại với ông như thế này: "Đôi khi lính Mỹ cho kẹo. Đôi khi họ bắn mọi
người. Đôi khi họ đi qua làng và hầu như không đụng đến bất cứ cái gì. Đôi khi
họ đốt cháy tất cả nhà cửa. Chúng tôi không hiểu tại sao họ lại hành động như
thế”.
Cùng với một cuộc chiến tranh chính thức tưởng tượng ở Việt Nam hình thành một cuộc chiến tranh hiện thực mà Turse lần đầu tiên mô tả một cách tương ứng. Điều này hoàn toàn không phải để bao biện cho những gì đã xảy ra, nếu chúng ta nói rằng không chỉ những mệnh lệnh đến từ trên xuống là quan trọng đối với binh lính như những điều kiện: Robert Lifton gọi điều đó là "hoàn cảnh kích động sự tàn bạo", mà chính chúng tạo ra sự suy thoái hành vi. Lối giải thích này không cho phép các nhà kiến trúc của chiến tranh thoái thác trách nhiệm, mà chính sách sai lầm và mù quáng của họ gây ra hoàn cảnh địa ngục này.
Thêm một nghịch lý
cay đắng ở chỗ rằng cuộc chiến hiện thực vào thời điểm nhất định tại những cấp
chỉ huy cao nhất đã biến thành chính
sách, mà nó chuyển hóa thành những mệnh lệnh từ trên xuống. Trong thực tế, các
tướng lĩnh dần dần - điều này thật vô lý dưới ánh sáng của các mục tiêu dự định
của chiến tranh - cho phép và trên thực tế ủng hộ cuộc chiến tranh chống lại
dân chúng. Hãy nhớ lại tướng Ewell và số lượng các tử thi.
Nói cách khác, hứng tác diễn ra bên trên theo mệnh lệnh, cho đến khi những người lính thực hiện mệnh lệnh và giết hại dân thường, tuy nhiên, như điều đó xảy ra trong trường hợp với Ewell, những mệnh lệnh này hiếm khi có hình dạng như vậy. Tuy nhiên các tướng lĩnh đôi khi đã đi khá xa trong việc xây dựng các quy định mới, mặc dù họ mâu thuẫn một cách thô bạo với chính sách chính thức.
Nói cách khác, hứng tác diễn ra bên trên theo mệnh lệnh, cho đến khi những người lính thực hiện mệnh lệnh và giết hại dân thường, tuy nhiên, như điều đó xảy ra trong trường hợp với Ewell, những mệnh lệnh này hiếm khi có hình dạng như vậy. Tuy nhiên các tướng lĩnh đôi khi đã đi khá xa trong việc xây dựng các quy định mới, mặc dù họ mâu thuẫn một cách thô bạo với chính sách chính thức.
Turses dẫn ra một
sai lầm - vào năm 1965, tướng William Westmoreland, người vào năm 1964 đã trở
thành tổng tư lệnh lực lượng Mỹ tại Việt Nam, một cách gián tiếp đã tuyên bố về
cuộc chiến tranh chống nông dân ở miền Nam Việt Nam. Ông nói:
"Cho đến gần đây, cuộc chiến được đặc trưng bởi rằng một phần lớn đáng kể dân chúng là những người trung lập. Trong những năm gần đây, chúng ta đã chứng kiến sự leo thang chiến tranh và gia tăng cường độ của nó. Vào một thời điểm nào đó, những người nông dân địa phương sẽ buộc phải đưa ra quyết định. Họ sẽ phải lựa chọn, nếu muốn sống".
"Cho đến gần đây, cuộc chiến được đặc trưng bởi rằng một phần lớn đáng kể dân chúng là những người trung lập. Trong những năm gần đây, chúng ta đã chứng kiến sự leo thang chiến tranh và gia tăng cường độ của nó. Vào một thời điểm nào đó, những người nông dân địa phương sẽ buộc phải đưa ra quyết định. Họ sẽ phải lựa chọn, nếu muốn sống".
Cũng như cấp dưới
của mình, Westmoreland đã ứng tác. Chính sách mới này là thực sự với sự hỗ trợ
của khủng bố cố khuất phục những người nông dân, nhưng nó hoàn toàn không trùng
hợp với lập luận chính thức của Washington về việc chinh phục những trái tim và
khối óc, và, ngoài ra, là hoàn toàn không tương thích với tất cả những gì binh
lính Mỹ đã gây nên và chuẩn bị thực hiện tại khu vực của quân đoàn I, cũng như
khắp cả nước.
Ngôi nhà chọc trời của sự lừa dối
Còn thêm một mức
độ của cuộc xung đột này cần phải nhắc đến trong ngữ cảnh. Các tài liệu cho
thấy rằng trong giữa những năm 1960s, một phán quyết sai lầm then chốt liên
quan đến chiến tranh Việt Nam - về điều rằng những kẻ thù Việt Nam là các xúc
tu của chủ nghĩa cộng sản thế giới, rằng đó là tiền duyên của chiến tranh lạnh,
chứ không phải đơn giản là chi tiết trong thời kỳ dài của phi thực dân hóa
trong thế kỷ XX mà những người dân Nam Việt Nam muốn được Hợp chúng quốc cứu
thoát - tất cả những điều này, nhiều người tin rằng, đã được đánh giá sai lầm ở Washington. Tuy nhiên, một phán quyết khác, hóa
ra, không sai lầm: bất cứ chính quyền nào không "mất" Việt Nam, nó, rất có thể, thất bại kể cả
trong các cuộc bầu cử.
Điều này đúng hay
không, nhưng các tổng thống đã sống
trong nỗi lo sợ về khả năng thất trận và như vậy về mặt chính trị họ bị tiêu
diệt bởi phong trào mà thượng nghị sĩ Joe McCarthy bắt đầu sau khi Mỹ "mất"
Trung Quốc vào năm 1949. Sau đó, McGeorge Bundy, cố vấn về an ninh quốc gia cho
tổng thống Lyndon Johnson, đã mô tả sự hiểu biết của mình về tâm trạng của tổng
thống vào thời điểm đó như thế này:
"Lyndon
Johnson đã không được đặc biệt quan tâm ai cầm quyền tại Lào hoặc ai cai quản ở Nam Việt Nam - ông rất
lo ngại rằng cử tri người Mỹ trung bình sẽ suy nghĩ về ứng xử của tổng thống trong thời gian của chiến tranh lạnh.
Giải vô địch vĩ đại trong lĩnh vực chiến tranh lạnh là tại sân vận động lớn
nhất ở Hoa Kỳ và ông, Lyndon Johnson, trong cuộc chơi này là распасовщик (Bạn nào biết xin dịch giúp Kichbu), và nếu ông thua cuộc, thì ông sẽ nom thế nào trong
các cuộc bầu cử tiếp theo? Bởi vậy không nên thất trận. Bây giờ điều này thấy
đơn giản, nhưng hoàn cảnh của ông ấy là như vậy. Ông ấy phải đối mặt với sự
sống còn chính trị của mình mỗi lần khi xem xét những vấn đề này".
Trong bối cảnh như
vậy, những toan tính chính trị trong nước đã chặn đứng ý kiến quan trọng rằng
trong trường hợp công bố sự vô dụng và những nỗi kinh hoàng của tất cả những gì
xảy ra điều này có thể dẫn đến kết thúc chiến tranh. Ngày càng dễ hiểu rằng đó
là một trò hề đẫm máu, tuy vậy chính trị khăng khăng rằng cần phải tiếp tục nó.
Khi tình hình không thay đổi, bất kỳ những tin tức nào từ Việt Nam không thể
dẫn đến những thay đổi chính sách liên quan đến chiến tranh.
Đây chỉ là tầng
trên cùng của tòa nhà chọc trời lừa dối,
mà cuộc chiến tranh ở Việt Nam
đại diện cho nó. Chính sách đối nội là nguyên nhân chủ yếu và được bảo vệ khỏi
các sự kiện sinh ra những hành động tàn ác trong chiến tranh. Chúng ta có nghĩ
rằng tình hình trong ý nghĩa này đã thay đổi?
Jonathan Schell là một thành viên của tổ chức nghiên
cứu The Nation Institut, và đồng thời là
phóng viên chiến tranh và là chuyên gia về giải trừ quân bị của tạp chí Nation.
Ông cũng là tác giả của cuốn sách "cuộc chiến tranh hiện thực" (The
Real War), trong đó tập hợp các phóng dự của ông về chiến tranh ở Việt Nam đã công bố trên tạp chí New York.
*
Bản dịch chưa được biên tâp. Mong các bạn góp ý. Kichbu..:)
----
*
Bản dịch chưa được biên tâp. Mong các bạn góp ý. Kichbu..:)
----
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét